Monday, November 18, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaNghiên cứu Việt NamAI CÓ CHỦ QUYỀN ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA...

AI CÓ CHỦ QUYỀN ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA ?

Bài viết này sẽ
dựa vào những nguyên tắc và quy phạm pháp lý quốc tế và thực tiễn quốc tế để lý
giải ai thực sự có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Theo luật pháp
quốc tế, chiếm hữu là một trong những phương thức đầu tiên, cơ bản của việc thụ
đắc lãnh thổ. Điều kiện cần trước tiên của nguyên tắc chiếm hữu phải là đối với
lãnh thổ vô chủ (terra nullius), tức
là vùng lãnh thổ không thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào.

Các đảo trong hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các đảo vô chủ cho đến thế kỷ XVII, khi Nhà nước
Việt Nam có những hành vi chiếm hữu chiếm hữu thực sự, rõ ràng và thiết lập được
một cơ chế Nhà nước thích hợp để kiểm soát, quản lý, bảo vệ hai quần đảo và thực
hiện trên thực tế quyền tài phán ở đó. Từ đó, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu
và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo một cách hoà bình liên tục và không vấp
phải sự phản đối của bất kỳ một quốc gia nào. Cho đến năm 1909, Trung Quốc mới có
những biểu hiện đầu tiên thể hiện mong muốn chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa, làm ngơ
trước quyền thụ đắc lâu đời của triều đình An Nam – đại diện của Nhà nước Việt Nam
thời bấy giờ, đối với quần đảo đó.

 Các tài liệu lịch sử và các công trình nghiên
cứu của các học giả Việt Nam và một số nước khác đã đưa ra những chứng cứ thuyết
phục chứng minh rằng Nhà nước Việt Nam trước kia là người đầu tiên trong lịch sử
đã chiếm hữu và tiến hành quản lý, khai thác với danh nghĩa Nhà nước đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm Bính Thân, niên
hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836) Bộ Công dâng sớ lên tâu vua: "Bản quốc hải cương Hoàng Sa xứ, tối thị hiểm
yếu
". Sách Đại Nam
nhất thống chí viết: "Phía Đông có bãi
cát nằm ngang (đảo Hoàng Sa) liền với biển xanh làm hào bao che
".

Trong sách
"Hải Lục" của Trung Quốc viết
năm 1842 cũng nhận xét: "Vạn lý Trường
Sa gồm những bãi cát nổi trên biển dài mấy ngàn dặm, làm phên dậu bên ngoài của
nước An Nam
".

Trong bản đồ Biển
Đông (Sinensis Oceanus) của anh em Van Langren người Hà Lan in năm 1595 cũng như
trong bản đồ "Indiae Orientalis" của nhà hàng hải Meccato in năm
1633, đã vẽ hải quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thành một dải liền nhau, hình lá
cờ đuôi nheo nằm trải dài ngoài khơi dọc theo bờ biển miền Trung Việt Nam, trong
đó có rất nhiều chấm nhỏ biểu thị các hòn đảo, bãi cát với hàng chữ Isle de Pracel
(quần đảo Pracel). Trong bản đồ này trên bờ biển ở khu vực Đà Nẵng hiện nay có ghi
dòng chữ Costa de Pracel (bờ biển Pracel).

Trong một công trình
của mình, nhà nghiên cứu M.G Dumoutier đã đề cập đến một tập bản đồ Việt Nam vẽ
vào cuối thế kỷ 15 gồm 24 mảnh, trong đó có mảnh thứ 19 đã thể hiện rõ ràng ở ngoài
khơi tỉnh Quảng Nghĩa có một bãi cát trải dài 500 – 600 hải lý mang tên Bãi Cát
Vàng.

Tác phẩm Phủ biên
tạp lục của nhà bác học Việt Nam Lê Quý Đôn (1726 – 1784), viết năm 1776, đã ghi
chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc phủ Quảng Nghĩa):”Phủ Quảng Nghĩa, ở ngoài cửa biển xã An
Vĩnh, huyện Bình Sơn có núi gọi là cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, trước có phường Tứ
Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến; phía ngoài nữa có đảo Đại Trường
Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để đi
lấy, đi ba ngày đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải”.

Việt Nam đã củng
cố sự chiếm hữu và xác lập chủ quyền của mình thông qua các hoạt động quản lý và
khai thác thực tế: Việc tổ chức các đội Hoàng Sa để tiến hành khai thác với tư cách
Nhà nước, đội Hoàng Sa sau này được tăng cường thêm đội Bắc Hải để khai thác quần
đảo Trường Sa, được duy trì và hoạt động liên tục từ thời các chúa Nguyễn
(1558-1783) đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và Nhà Nguyễn sau đó.

Vua Gia Long, người
sáng lập đời nhà Nguyễn và các vua kế tiếp như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều
quan tâm củng cố chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo … Năm 1815, vua Gia Long
cử Phạm Quang ảnh dẫn đội quân Hoàng Sa ra quần đảo Hoàng Sa tiến hành khảo sát
và đo đạc đường biển, công việc này còn được tiến hành tiếp tục trong nhiều năm
tiếp theo. Tiếp đó, liên tiếp trong các năm 1834, 1835, 1836 vua Minh Mạng đã cử
các tướng Phạm Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật ra Hoàng Sa đo đạc từng đảo,
khảo sát tình hình biển chung quanh, vẽ bản đồ và xây miếu, dựng bia. Vua Thiệu
Trị đã trực tiếp phê duyệt kế hoạch hoạt động hàng năm của đội Hoàng Sa do Bộ Công
đệ trình. Vua Tự Đức đã phong cho những chiến sĩ đội Hoàng Sa hy sinh danh hiệu
"Hùng binh Trường Sa".

Sau khi thiết lập chế độ bảo hộ đối với Việt
Nam theo Hiệp ước ngày 6 tháng 6 năm 1884, 
Pháp đã nhân danh Việt Nam cai quản hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; chủ
yếu tiến hành các cuộc tuần tiễu trong vùng, dùng tàu của lực lượng hải quan ngăn
chặn việc buôn lậu. Bên cạnh những việc đó, chính quyền Pháp đã cho tiến hành hàng
loạt các hoạt động nghiên cứu, điều tra, khảo sát về hải dương, địa chất và sinh
vật ở khu vực hai quần đảo.

Nhằm củng cố chủ quyền của Việt Nam trên hai
quần đảo, trong những năm đầu của thập kỷ 30 của thế kỷ XX, các đơn vị hải quân
của chính quyền Pháp đã lần lượt đến đóng quân trên các đảo chính thuộc quần đảo
Trường Sa. Hành động này đã được công bố và ghi nhận trong công báo nước Cộng hoà
Pháp ngày 26 tháng 7 năm 1933. Cùng trong năm 1933, quần đảo Trường Sa đã được quy
thuộc vào tỉnh Bà Rịa theo Nghị định 4762 của Thống đốc Nam kỳ J.Krautheimer ký
tại Sài Gòn ngày 21 tháng 12 năm 1933.

Ngày 15 tháng 6
năm 1938, Toàn quyền Đông Dương Brévíe đã ban bố Sắc lệnh xác lập đơn vị hành chính
trên quần đảo Hoàng Sa. Cũng trong năm 1938, Pháp đã cho dựng bia chủ quyền, xây
dựng xong đèn biển, trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở quần đảo Hoàng Sa; xây dựng
trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở quần đảo Trường Sa.

Năm 1939, Pháp đã
phản đối việc Nhật Bản tuyên bố một số đảo trên quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền
của Nhật Bản. Năm 1947, Pháp đã yêu cầu quân đội Trung Hoa dân quốc rút quân khỏi
các đảo của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ đã chiếm đóng trái phép từ
cuối năm 1946 và Pháp đã cho quân ra thay thế quân đội Trung Quốc, đồng thời cho
xây dựng lại trạm khí tượng và đài vô tuyến điện.

Năm 1950, Pháp chính
thức giao quyền quản lý hai quần đảo cho chính quyền Việt Nam. Năm 1951 tại
Hội nghị ký Hiệp ước hoà bình với Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ 2 tại San
Francisco, Thủ tướng của chính quyền Bảo Đại lúc đó là Trần Văn Hữu đã ra tuyên
bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo. Lời tuyên bố này đã không
bị bất kỳ quốc gia nào tham dự hội nghị phản đối.

Sau khi Hiệp định
Giơnevơ  năm 1954 được ký kết, Việt Nam tạm thời bị
chia cắt làm hai miền. Phần lãnh thổ phía Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 (bao gồm cả
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) trở vào tạm thời được đặt dưới sự quản lý của
các chính quyền miền Nam Việt Nam. Năm 1956, khi rút quân khỏi Việt Nam, Pháp đã chuyển
giao sự quản lý phần lãnh thổ phía Nam Việt Nam cho chính quyền Sài Gòn. Theo đó,
chính quyền Sài Gòn đã tổ chức việc đưa quân ra tiếp quản hai quần đảo, đồng thời
tổ chức lại về mặt hành chính (coi mỗi quần đảo là một xã thuộc một huyện trong
đất liền), cho xây dựng các bia chủ quyền tại các đảo chính, duy trì các trạm khí
tượng và đăng ký chúng vào danh mục các trạm của Tổ chức khí tượng thế giới OMM,
cho một số nhà kinh doanh ra khai thác phân chim ở Hoàng Sa đồng thời liên tục cử
các nhà khoa học ra hai quần đảo nghiên cứu.

Lợi dụng sự xáo
trộn về chính trị, vào các năm 1956 (Pháp rút khỏi Đông Dương) và năm 1974 chính
quyền Sài Gòn đang phải đương đầu với các cuộc tiến công của lực lượng vũ trang
của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, quân đội Trung Quốc
đã dùng vũ lực lần lượt chiếm đóng phần phía Đông (1956) và sau đó là phần phía
Tây quần đảo (1974), chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Chính quyền Sài
Gòn đã kịch liệt phản đối và đã thông báo cho các nước và Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc về sự kiện này. Cũng vào thời gian đó, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà
miền Nam Việt Nam đã ra tuyên bố lập trường ba điểm về vấn đề chủ quyền trên hai
quần đảo, bao gồm việc các bên phải cùng nhau thương lượng để giải quyết vấn đề.

Sau khi nước Việt
Nam
thống nhất, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục
việc thực hiện quyền làm chủ của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày 11 tháng
12 năm 1982, Việt Nam ra quyết định tổ chức quần đảo Hoàng Sa thành huyện đảo Hoàng
Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và tổ chức quần đảo Trường Sa thành huyện đảo
Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 28 tháng 12 năm 1982, Việt Nam tách huyện đảo
Trường Sa ra khỏi tỉnh Đồng Nai và sáp nhập vào tỉnh Phú Khánh (nay là tỉnh Khánh
Hoà). Chính quyền huyện đảo Trường Sa của Việt Nam hiện đang thực hiện nhiệm vụ quản
lý quần đảo này một cách thực sự. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Việt Nam tách huyện
Hoàng Sa khỏi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cũ, sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng trực thuộc
Trung ương.

Từ thực tế lịch
sử và căn cứ vào các nguyên tắc, tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế, có thể khẳng
định rõ ràng rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã từ lâu và luôn luôn là lãnh
thổ của Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam
đã chiếm hữu hai quần đảo đó từ khi chúng chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ một quốc
gia nào đối với hai quần đảo này. Đây là sự thực được chứng minh bởi các bằng chứng
rõ ràng về việc thực hiện chủ quyền của Nhà nước Việt Nam  ở  hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua các thời kỳ lịch sử. Phía Trung Quốc không thể chứng
minh được việc Nhà nước Trung Quốc đã chiếm hữu và thực hiện quyền làm chủ của mình
như thế nào đối với hai quần đảo này. Việc dùng vũ lực để chiếm đóng quần đảo Hoàng
Sa và một vài vị trí trên quần đảo Trường Sa của một số bên tranh chấp là hoàn toàn
bất hợp pháp và không có giá trị pháp lý về mặt chủ quyền.

RELATED ARTICLES

1 COMMENT

Comments are closed.

Tin mới