Saturday, April 20, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaNghiên cứu Việt NamNHỮNG CHỨNG CỨ VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ...

NHỮNG CHỨNG CỨ VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA

Nguyên tắc
thực sự là một nguyên tắc quan trọng của luật pháp quốc tế về xác lập chủ quyền
đối với các lãnh thổ vô chủ (rès nullius) từ nhiều thế kỷ vừa qua. Hiện nay, nguyên
tắc này đã trở thành một trong các quy phạm của luật quốc tế tập quán và đã trở
thành các tiêu chuẩn để xác lập chủ quyền đối với lãnh thổ vô chủ và lãnh thổ
bị từ bỏ (rès derelicta). Việc chiếm hữu thật sự và thực hiện thật sự, liên tục
và hoà bình quyền lực của Nhà nước có giá trị như một danh nghĩa chủ quyền. Theo
luật pháp quốc tế hiện đại, những luận cứ về việc phát hiện đầu tiên, việc chiếm
hữu của tư nhân, chiếm hữu bằng chinh phục bạo lực không mang lại chủ quyền đối
với vùng đất đai được phát hiện hoặc bị chinh phục. Để có kết luận khách quan về
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bài viết này sẽ lấy chứng
cứ của Việt Nam đối chiếu với các tiêu chuẩn của nguyên tắc thực sự để chứng
minh rằng Việt Nam đã chiếm hữu thật sự, thực hiện thật sự, liên tục và hoà
bình quyền lực Nhà nước đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Việt Nam
đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ thế kỷ
XVII khi hai quần đảo chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào và Nhà nước
Việt Nam đã thực hiện thật sự chủ quyền của mình một cách liên tục và hoà bình
cho đến khi quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa bị các lực lượng
vũ trang Trung Quốc đánh chiếm.

Theo Toàn
Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư do Đỗ Bá Công Đạo soạn vào thế kỷ
XVII, vào thế kỷ XVII bản đồ Việt Nam đã đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa bằng cái tên chung là Bãi Cát Vàng và quy thuộc hai quần đảo này vào đại hạt
huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa. Lúc đó, Bãi Cát Vàng còn được gọi bằng nhiều
tên khác như : Hoàng Sa, Cồn Vàng, Trường Sa, Đại Hoàng Sa, Đại Trường Sa, Vạn
Lý Trường Sa v.v… và nay là Hoàng Sa và Trường Sa.

Việt Nam đã
củng cố sự chiếm hữu và xác lập chủ quyền bằng việc tổ chức các đội Hoàng Sa để
tiến hành khai thác với tư cách Nhà nước. Mỗi đội Hoàng Sa gồm 70 người, nhiệm
vụ là mỗi năm ra Hoàng Sa sáu tháng đánh bắt hải sản như hải sâm, đồi mồi, ốc
quý,… thu lượm các hàng hoá của các tàu bị đắm ở vùng các quần đảo này như vàng
bạc, tiền tệ, súng đạn, thiếc, đồ sứ, đồ thuỷ tinh,… Cuốn sách của Đỗ Bá Công
Đạo cũng như hàng chục sách khác như Phủ Biên Tạp
Lục (1776),  Đại  Nam thực lục tiền biên và chính biên  (1844-1848),
Đại  Nam Nhất Thống Chí (1882),
những bộ sử chính thức của Quốc Sử quán của Triều đình Huế, Lịch
Triều Hiến Chương Loại Chí (1821), Hoàng Việt Địa
Dư Chí (1833)… đều đã nói đến Hoàng Sa và việc khai thác bằng các
đội Hoàng Sa. Tất cả có thể lệ tuyển chọn người, chế độ thu nộp, chế độ khen
thưởng, chế độ đãi ngộ đối với các đội Hoàng Sa đều được Nhà nước quy định rõ
ràng.

Đội Hoàng
Sa, sau được tăng cường thêm đội Bắc Hải, được duy trì và hoạt động liên tục từ
thời các Chúa Nguyễn (1558-1783) đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và nhà Nguyễn
(1802-1945).

Vua Gia
Long, người sáng lập đời nhà Nguyễn và các vua kế tiếp như Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức đã đặc biệt quan tâm củng cố chủ quyền của nước mình đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sau đây
là một số sự kiện nổi bật nhất :

– Năm
1815 vua Gia Long cử Phạm Quang Ảnh dẫn đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa khảo sát và đo
đạc đường biển. Việc khảo sát và đo đạc được tiếp tục vào các năm sau đó.

– Sau khi
chỉ thị chuẩn bị thuyền và vật tư năm 1833, vua Minh Mạng, liên tiếp trong 3
năm 1834, 1835, 1836 cử các tướng Trưng Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật
ra Hoàng Sa đo đạc từng đảo, khảo sát tình hình biển chung quanh, vẽ bản đồ và
xây miếu, dựng bia chủ quyền. Vua Thiệu Trị đã trực tiếp phê duyệt kế hoạch
hoạt động năm của đội Hoàng Sa do Bộ Công đệ trình. Vua tự Đức đã phong cho
những chiến sĩ đội Hoàng Sa hy sinh danh hiệu "Hùng binh Trường Sa".

Sau khi
thiết lập chế độ bảo hộ đối với Việt Nam
theo Hiệp ước ngày 6 tháng 6 năm 1884, Pháp nhân danh Việt Nam cai quản hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.

Trong
thời kỳ đầu, các nhà cầm quyền Pháp đã có phương án dựng một đèn biển ở quần
đảo Hoàng Sa, tiến hành các cuộc tuần tiễu trong vùng biển hai quần đảo bằng
các tàu chiến để bảo đảm an ninh, bằng các tàu của hải quan để ngăn chặn buôn
lậu. Họ cho người Nhật Bản đến khai thác phân chim trên các đảo Hoàng Sa. Từ
năm 1925 đến năm 1927, Viện hải dương học Nha Trang cử tàu De Lanessan ra cả
hai quần đảo Hoàng Sa rồi Trường Sa, nghiên cứu về hải dương, địa chất, sinh
vật v.v…

Từ năm
1930 đến 1932, các tàu chiến Inconstant, Alerte, La Malicieuse và cả tàu De
Lanessan liên tiếp ra quần đảo Hoàng Sa khảo sát.

Từ 1930
đến 1933, các đơn vị hải quân Pháp lần lượt đến đóng tại các đảo chính của quần
đảo Trường Sa như đảo Trường Sa, An Bang, Ba Đình (Itu Aba), nhóm Song Tử, Loại
Ta và Thị Tứ. Việc đó đã được công bố trong Công báo nước Cộng hoà Pháp ngày 26
tháng 7 năm 1933. Cùng trong năm 1933, quần đảo Trường Sa được qui thuộc vào
tỉnh Bà Rịa bằng một Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ J. Krautheimer.

Sau khi
Nhật Bản chiếm Mãn Châu (1931) và gây sự kiện Lư Câu Kiều (1937) mở đầu cuộc chiến
tranh xâm lược Trung Quốc, nguy cơ Nhật Bản bành trướng xuống Đông Nam Á là rõ
ràng, các nhà cầm quyền Pháp bắt đầu triển khai kế hoạch phòng thủ Đông Dương,
trong đó có vấn đề bảo vệ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quần đảo Hoàng Sa
được tách ra khỏi địa hạt tỉnh Nam Nghĩa và được đặt vào tỉnh Thừa Thiên và
được lập thành một đơn vị hành chính riêng. Năm 1937, tuần dương hạm Lamotte
Piquet do Phó Đô đốc Estéva chỉ huy ra thăm quần đảo Hoàng Sa. Các nhà cầm
quyền Đông Dương cho một đơn vị quân đội ra đóng tại quần đảo Hoàng Sa, lập tại
đây các trạm khí tượng, vô tuyến điện, xây dựng thêm bia chủ quyền và đèn biển.

Đầu năm
1939, Nhật Bản tuyên bố đặt một số đảo của quần đảo Trường Sa thuộc quyền tài
phán của họ. Pháp đã chính thức phản kháng. Từ 1939 cho đến hết cuộc chiến
tranh thế giới thứ hai, quân đội Nhật Bản đã chiếm đóng cả hai quần đảo này.

Khi trở
lại Đông Dương sau chiến tranh thế giới thứ hai, đầu năm 1947 Pháp đã yêu cầu
quân Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi các đảo của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
mà họ đã chiếm đóng trái phép cuối năm 1946 và Pháp đã cho quân đến thay thế
quân đội Trung Hoa Dân Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng và đài vô tuyến điện.

Tại Hội
nghị 51 nước ở San Prancisco năm 1951 về ký Hoà ước với Nhật Bản, Trưởng đoàn
đại biểu của Quốc gia Việt Nam dưới sự bảo trợ của Pháp đã tuyên bố khẳng định
lại chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo mà không gặp sự phản đối hoặc
bảo lưu nào của Hội Nghị.

Hiệp định
Giơnevơ về Đông Dương năm 1954 đã công nhận độc lập, thống nhất, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, nhưng nước Việt Nam tạm thời chia làm hai
miền và lãnh thổ miền Nam từ vĩ tuyến 170 Bắc trở vào (bao gồm cả
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) do các nhà cầm quyền miền Nam quản lý. Năm
1956, khi rút khỏi Đông Dương, Pháp đã 
chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho nhà cầm quyền Sài Gòn. Nhà
cầm quyền Sài Gòn đã cho quân ra tiếp quản hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Họ đã tổ chức lại hai quần đảo về mặt hành chính, thành lập tại mỗi quần đảo
một xã thuộc một huyện ở đất liền, cho xây dựng các bia chủ quyền tại các đảo
chính, duy trì các trạm khí tượng (các trạm này đã được đăng ký vào danh mục
các trạm của Tổ chức khí tượng thế giới OMM), cho một số nhà kinh doanh ra khai
thác phân chim ở Hoàng Sa và cử các đoàn khảo sát khoa học ra hai quần đảo
nghiên cứu.

Lợi dụng
việc Pháp rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc đã chiếm nhóm đảo phía Đông của quần
đảo Hoàng Sa năm 1956. Năm 1974, lợi dụng việc quân đội của chính quyền Sài Gòn
phải đối phó với cuộc tiến công của lực lượng vũ trang của Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Trung Quốc dùng không quân và hải quân
chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. Lúc đó chính quyền Sài Gòn đã ra
tuyên bố kịch liệt phản đối và đã thông báo cho các nước và Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc về sự kiện này, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam
Việt Nam cũng đã công bố lập trường 3 điểm bao gồm đề nghị các bên liên quan
phải cùng nhau thương lượng để giải quyết vấn đề. Tại Hội nghị của Tổ chức Khí
tượng thế giới (OMM) năm 1975 tại Colombo, Chính phủ trên cũng đã kiên quyết
đấu tranh đòi bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và duy trì trạm khí tượng
của nước mình tại quần đảo này.

Trong tất
cả các trường hợp khác xâm phạm chủ quyền của Việt Nam
tại hai quần đảo, các chính quyền miền Nam Việt Nam đều lên tiếng phản đối kiên
quyết.

Sau khi
nước Việt Nam được thống
nhất, nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã nhiều lần khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Năm 1982, Việt Nam
đã lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và huyện Trường Sa
thuộc tỉnh Phú Khánh.

Tình hình
trên đây khẳng định rõ rằng Nhà nước Việt Nam người đầu tiên  chiếm hữu thật sự hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa; thực hiện thật sự, liên tục và hoà bình các chức năng Nhà nước của
mình trong khoảng 300 năm từ thế kỷ XVII.

RELATED ARTICLES

Tin mới