Friday, March 29, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaSự kýĐẠI SỰ KÝ VỀ CHỦ QUYỀN ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO...

ĐẠI SỰ KÝ VỀ CHỦ QUYỀN ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA KỲ I

Kỳ I.

Ngày 17-4-2010, tình cờ tôi đọc bài “Một cách nhìn khác về tinh thần dân tộc” của  bà Đỗ Lai Bích, một nghiên cứu sinh tại Mỹ, trên trang mạng của BBC tiếng Việt. Trong bài này, bà Đỗ Lai Bích nói nhiều chuyện, trong đó có ý kiến cho rằng : cho đến trước năm 1974, Việt Nam chưa chính thức tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và không đủ cơ sở để khẳng định hai quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam. Bài viết của bà Đỗ Lai Bích đã khiến độc giả trong và ngoài nước phẫn nộ gửi phản hồi trên trang mạng BBC tiếng Việt. Do đã có nhiều ý kiến phê phán hiểu biết non nớt về nhiều phương diện của  bà Đỗ Lai Bích, tôi không phê phán thêm. Nhưng tôi thấy mình nên cung cấp một số thông tin về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để nhiều người hiểu rõ thêm hư thực về vấn đề hết sức phức tạp này.

Với tinh thần đó, tôi xin giới thiệu Đại sự ký của bà Monique Chemilier – Gendreau, một giáo sư nổi tiếng người Pháp, trong cuốn sách “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” mà bà là tác giả thành một bản Đại sự ký đơn giản, trong đó nêu những sự kiện thật nổi bật nhất liên quan đến việc Việt Nam  xác lập và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này để nhiều nguời cùng biết.

I. TRƯỚC THỜI KỲ THUỘC ĐỊA :

Việc  biết  đến  các  quần  đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) chắc  chắn  là đã có  từ  rất lâu.  Nó  đã được  chứng  minh  bằng  rất  nhiều  ghi  chép trong  các  tác  phẩm  lịch  sử.  Nhưng,  sự  hiểu  biết  về  các quần  đảo  này  –  xuất  phát  từ  sự  phát  hiện  của những người  đi  biển  khác  nhau  –  đã được nêu  trong  các  câu chuyện  kể lại  về  những chuyến  đi  hoặc xuất phát từ các bản  đồ,  cho  tới  tận  thế  kỷ  XVIII, không có hệ quả pháp lý nào.

Những người đánh cá từ các quốc gia láng giềng khác nhau thường xuyên lui tới các đảo này trong hàng thế kỷ.

Những người đi biển có nguồn gốc xa hơn (người Ấn Độ, Ả  Rập,  Bồ Đào  Nha,  Tây  Ban  Nha,  Hà Lan)  đã   biết  và nói về các đảo này từ lâu.  Trong số đó, có các  nhà hàng  hải Pháp  xuống tàu từ cảng  La Rochelle,  ngày  7-3-1568,  cùng  với  các  nhà bác học dòng Tên, đi Viễn Đông. Họ đã đến Hoàng Sa.

Hai quần  đảo  trở  nên  nổi  tiếng  trong  các  biên  niên  sử hàng  hải đối  với  vụ đắm tàu “Amphitrite” dưới thời  vua Louis  XIV  trong  khi  đi  từ nước  Pháp  sang  Trung  Quốc (1698) các  văn  bản  cổ  Trung  Quốc  từ  những  giai  đoạn  trước thế kỷ XVIII có nhắc tới sự tồn tại của các đảo mà các thủy thủ Trung Quốc đã biết đến từ lâu.

– Qua các tư liệu, sử sách (Phủ biên tạp lục của Nhà bác học Lê Quý Đôn năm 1776; Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú và Quốc sử quán triều Nguyễn – Đại Nam nhất Thống chí) từ cuối Thế kỷ XVI đến Thế kỷ XVII (thời Chúa Nguyễn) đã hình thành đội Hoàng Sa, hàng năm đi làm nhiệm vụ ở Quần đảo Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa đã tiến hành một cách liên tục các hoạt động khai thác, quản lý quần đảo Hoàng Sa cho đến giữa Thế kỷ thứ XIX. Lực lượng chính tham gia các đội Hoàng Sa là người An Vĩnh (thuộc Đảo Lý Sơn và xã Tịnh Kỳ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi). Các dấu tích về đội Hoàng Sa hiện vẫn được lưu giữ ở huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi (Sắc chỉ, Châu bản, miếu thờ….).

– Năm 1816 : Hoàng đế Gia Long long trọng khẳng định chủ quyền của các vua An Nam trên  các quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa).

– Triều  Minh  Mạng  nối  ngôi  Hoàng  đế  Gia Long  tiếp tục theo đuổi sự nghiệp của ông.

– Năm 1833-1834 :  Vua Minh Mạng có Chiếu  dụ  xây  dựng  bia  và lập  bản  đồ quần đảo.

–  Năm 1835-1836 : Các  công  trình  trên  đảo  được  tiến  hành dưới sự quản lý của nhà vua.

– Năm 1848-1849 : Quản lý hành chính các đảo được duy trì, nó có mục  đích  địa lý  nhằm mang lại sự  hiểu biết  tốt nhất về các hải trình. Nó cũng có mục đích tài chính để thu thuế ngư dân trong vùng.

II. THỜI KỲ XÂM CHIẾM THUỘC ĐỊA CỦA PHÁP CHO TỚI CUỐI CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ HAI :

Sự  thống  trị  của Pháp  được  bắt  đầu  bằng  hiệp  ước đầu tiên về chế độ bảo hộ ký tại Sài Gòn ngày 15-3-1874, được  xác  nhận bằng  hiệp ước ấn  định  dứt khoát chế độ bảo hộ (Hiệp ước Patenôtre) ký tại Huế ngày 6-6-1884 và đã mang  lại  cho  nước  Pháp  những  thẩm  quyền  quan trọng trong một số lớn lĩnh vực.

Về phương  diện  ranh  giới  lãnh  thổ,  nước  Pháp  thực hiện  quyền  kiểm  soát  của mình  ở  Bắc  Kỳ  và Trung  Kỳ. Quân đội Pháp  có thể lui tới tất cả các nơi trên  lãnh thổ của Vương quốc.

Ngày  17-10-1887 :  Liên  hiệp  Đông  Dương  được  thành  lập  biến  thành  một  chính  quyền  thuộc  địa, nằm dưới  quyền của Toàn quyền Paul Doumer. Quyền lực cơ  bản của Hoàng đế từ nay được chuyển vào tay Khâm sứ.

Các sự kiện liên quan đến quần đảo này hay quần đảo kia trong thời kỳ này là những sự kiện sau :

Năm 1881-1884 : Người  Đức  tiến  hành  nghiên  cứu  có  hệ thống  tình  hình  thủy  văn  của quần  đảo  Hoàng  Sa (như họ đã làm trên toàn bộ biển Trung Hoa) mà không có yêu sách nào về chủ quyền đi theo.

–  Ngày 26-6-1887 : Pháp  và Trung Quốc  ký  kết Công ước hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc.

Văn bản này tuyên bố : “Tại Quảng Đông, hai bên đồng ý rằng những điểm tranh chấp ở phía  Đông  và  Đông Bắc Móng Cái, phía bên kia đường biên giới được quy thuộc về Trung Quốc.  Những  hòn đảo  nằm ở phía  Đông  đường kinh tuyến  Paris  105043’Đông,  nghĩa  là  của  đường thẳng Bắc  – Nam đi qua mũi phía Đông của đảo Tch’a-Kou Ouanchan (Trà Cổ)  và  tạo  thành biên  giới,  cũng thuộc  về  Trung Quốc.  Các đảo Cô Tô và những hòn đảo khác ở phía Tây kinh tuyến này thuộc về An Nam”.

Năm 1895-1896 :  Hai  vụ đắm  tàu  xảy  ra tại  quần  đảo Hoàng Sa vào những năm đó đã gây ra sự tranh cãi. Đó là vụ đắm  tàu  Đức  “Bellona” và vụ đắm  tàu  của Nhật “Imegi Maru”. Hai chiếc tàu vận chuyển đồng này do các công  ty  Anh  bảo  hiểm.  Không  thể  cứu  được  hàng  hóa trên  tàu.  Hàng  hóa bị  bỏ  lại  tại  chỗ.  Những  người  đánh cá Trung  Quốc  đã  cướp  lấy  hàng  hóa,  và  dùng  thuyền buồm và xuồng vận chuyển hàng hóa đến đảo Hải Nam để bán lại cho các chủ tàu thuyền.

Các  công  ty  bảo  hiểm  tìm  cách  lên  án  những  người phải chịu trách nhiệm, đã thúc đẩy đại diện nước Anh tại Bắc Kinh và lãnh sự tại Hoihow phản đối.

Các quan chức Trung Quốc  ở địa phương (Tổng đốc Lưỡng  Quảng)  đã cãi  lại  bằng  cách  trút  bỏ  mọi  trách nhiệm với lý do là quần đảo Hoàng Sa, theo họ là các đảo đã bị  bỏ                                                 rơi,  không  thuộc  về  Trung  Quốc  cũng  không thuộc  về  An  Nam,  và về hành  chính  các  đảo  đó  không được  sáp  nhập  vào  bất  cứ  một  huyện  nào  của đảo  Hải Nam và không có nhà chức trách đặc biệt nào “phụ trách về an ninh trên các đảo đó”.

– Năm 1899 :  Toàn  quyền  Paul  Doumer  ra lệnh  xây  một  hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa. Việc nghiên cứu do các cơ quan  kỹ  thuật  của  chính  quyền  thuộc  địa  tiến  hành. Nhưng việc đó không được thực hiện vì thiếu ngân sách.

Còn tiếp Kỳ II.

 

RELATED ARTICLES

Tin mới