Sau phần đầu tiên “Địa ngục trần gian”, Biendong,net xin tiếp tục gửi đến bạn đọc những đoạn trích trong cuốn sách gây nhiều tranh cãi của tác giả Tân Tử Lăng, nguyên Sư đoàn trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc và sau là một chuyên gia nghiên cứu về Mao Trạch Đông.
Từ mùa hè 1958 chính quyền và nông dân đã triển khai cuộc đại chiến giành giật lương thực. Do sức ép từ trên xuống, các nơi đều phải khai tăng sản lượng lương thực lên gấp bội.
Dựa vào con số lương thực “tự báo” đó, trên lại giao mức lương thực phải bán cho nhà nước. Cán bộ cơ sở và nông dân đứng trước một thực tế gay gắt: nếu bán lương thực theo chỉ tiêu, thì không còn cái ăn và cũng hết sạch cả hạt giống. Thế là khắp nơi diễn ra chiến dịch nông dân cất giấu lương thực dưới nhiều hình thức: chôn dưới hầm, dưới gốc cây, chân tường, vùi trong thức ăn gia súc, thậm chí chia thành gói nhỏ, cài trong tổ chim trên cây cao, hoặc đặt dưới hố nước tiểu. Các đội công tác được cử xuống nông thôn truy bức nông dân giao nộp lương thực, phát động mọi người tố giác lẫn nhau, nhiều đội trưởng sản xuất đã bị bất, bị tra tấn cực kỳ dã man, vì đã đứng về phía nông dân trong cuộc cất giấu lương thực này.
Tình hình nghiêm trọng ở nông thôn thông qua mọi con đường truyền vào thành thị, vào quân đội, vào các cơ quan đảng và chính quyền. Trung ương ĐCSTQ và Mao Trạch Đông kêu gọi toàn đảng “nói thật”. Hưởng ứng lời kêu gọi trên, cán bộ Trường Đảng Giang Tây, Văn phòng Quốc vụ viện, Quân đoàn 42 đã nói thật suy nghĩ của mình. Họ cho rằng “Đại tiến vọt” là bịa đặt, “luyện gang thép” chỉ hao người tốn của, phá hoại qui luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, công xã nhân dân là đứa trẻ đẻ non, nhà ăn tập thể không phải nhân tố cộng sản chủ nghĩa, kinh tế căng thẳng kéo dài do sai lầm về đường lối. Theo báo cáo Bí thư tỉnh uỷ Sơn Tây Đào Lỗ Già gửi Mao Trạch Đông, tại hội nghị cán bộ toàn tỉnh, có người nói “cả 10 ngón tay của các ông đều thối rữa rồi, mà vẫn nói 9 ngón còn tốt”, “Trước đây người Nhật đến Trung Quốc thực hiện chính sách “ba sạch (giết sạch, đốt sạch, cướp sạch), còn công xã nhân dân là chính sách “5 sạch”…
Mao Trạch Đông đã nghe sấm động ầm ầm dưới chân Trung Nam Hải.
Mùa xuân 1959, 15 tỉnh Sơn Đông, Giang Tô, Hà Nam, Hà Bắc, An Huy… xảy ra nạn đói, trên 25 triệu người không có lương thực. Đến giữa năm 1959, khắp Trung Quốc đầy rẫy người đói khát, tiếng oán hờn thấu tận trời xanh.
Mao quyết định triệu tập Hội nghị công tác tại Lư Sơn. Phần đầu (2-7 đến 1-8) là Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng.
Ngày 2-7, Thường vụ Bộ Chính trị thông qua 18 vấn đề do Mao nêu ra trong hội nghị này, trong đó có vấn đề cán bộ 3 cấp (trung ương, tỉnh, chuyên khu) phải đọc “Sách giáo khoa chính trị kinh tế học Liên Xô”, Mao nhượng bộ đôi chút về đánh giá khuyết điểm (từ chỉ “1 ngón tay” chuyển sang “2,3 ngón tay” có vấn đề), song vẫn khẳng định phải kiên trì đường lối chung, Đại tiến vọt, công xã nhân dân. Mao giao cho Chu Ân Lai chủ trì công việc hội nghị. Các bí thư tỉnh uỷ, Thành uỷ, các Bộ trưởng đều phát biểu theo khuôn khổ Mao đã định sẵn, nói nhiều về thành tích “Đại tiến vọt” chỉ nói sơ qua về khuyết điểm, năm tới cần tiếp tục Đại tiến vọt ra sao. Tại Tổ Tây Nam, Điền Gia Anh nói đến tình hình chân thực ông nắm được khi về điều tra, nghiên cứu ở Tứ Xuyên, liền bị Tổ trưởng Lý Tỉnh Tuyền (Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Tứ Xuyên) phê bình và ngăn chặn.
Tại Tổ Tây Bắc, Bành Đức Hoài phát biểu 7 lần, có một số lần gay gắt. Để bảo vệ Bành Đức Hoài, khi đưa vào thông báo tình hình thảo luận ở các tổ, Chu Ân Lai và Dương Thượng Côn đã cho “mài bớt các góc cạnh” hoặc lược bỏ.
Bành Đức Hoài không hiểu điều đó, ông quyết định gửi thư cho Mao Trạch Đông.
Đủ hiểu biết để cự tuyệt những lời khuyên răn, đủ lời lẽ để tô vẽ cho những sai lầm
Chiều 26-10-1958, đoàn tàu riêng chở Mao Trạch Đông dừng lại ở đường nhánh ga Hiếu Cảm tỉnh Hồ Bắc. Chính uỷ Quân đoàn 15 đổ bộ đường không Liêu Quan Hiền đã bố trí cảnh giới dày đặc khu vực xung quanh. Mao tiếp cán bộ lãnh đạo Quân đoàn 15, rồi gặp gỡ đại diện lãnh đạo tỉnh Hồ Bắc, chuyên khu Hiếu Cảm, một đội trưởng sản xuất và một cán bộ Hội Phụ nữ ở cơ sở, nhằm tìm hiểu tình hình thực tế. Được động viên số cán bộ trên đã mạnh dạn phản ánh hiện trạng nông thôn. Về chỉ tiêu 30 triệu tấn lương thực Trung ương giao cho Hồ Bắc năm 1958, đại diện Tỉnh uỷ nói chỉ làm được 10 triệu, nhiều nhất là 11 triệu tấn. Mao tỏ ra đau lòng, nói ông ta “có lỗi với nhân dân”.
Nhưng Mao là con người rất phức tạp và nhiều mâu thuẫn, chỉ ít ngày sau, ông không còn là Mao Trạch Đông trên đoàn tàu ở ga Hiếu Cảm nữa. Trong 8 tháng từ 11-1958 đến tháng 6-1959, Mao triệu tập Hội nghị Trung ương 6 và Hội nghị Trung ương 7 khoá 8, các Hội nghị Trịnh Châu, Vũ Xương, Thượng Hải. Tổng hợp những phát biểu của Mao tại các cuộc họp trên, có 5 điểm chính:
1. Quan hệ giữa 9 ngón tay và 1 ngón tay (9 ngón đúng, chỉ có 1 ngón sai). Đông đảo quần chúng tận mắt thấy năm 1958 đã thu thành tích vĩ đại, vấn đề chỉ là chế độ sở hữu của công xã đi quá xa một chút.
2. Sai lầm của “một ngón tay” là điều không tránh khỏi trung phong trào quần chúng.
Dựng tấm lá chắn “phong tráo quần chúng”, Mao đã lảng tránh trách nhiệm của mình.
3. Với tư thế nhà lý luận mác xít, Mao chỉ đạo cán bộ và nhân dân cả nước uốn nắn những lệch lạc nóng vội.
4. Giải thích sự cần thiết phải cưỡng chế mấy chục triệu người làm gang thép.
5. Không cho nêu ý kiến khác đối với nhà ăn tập thể, ăn không phải trả tiền.
Trong một loạt hội nghị do Mao đích thân chủ trì nói trên, nhận thức của phần lớn các uỷ viên Bộ Chính trị, uỷ viên Trung ương, Bí thư tỉnh uỷ bị gò trong khuôn khổ “9 ngón tay và một ngón tay”, không dám nhích ra ngoài một bước. Chỉ có Bành Đức Hoài nói lên nỗi cực khổ và tâm nguyện của nhân dân.
Tại Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp ở Thượng Hải từ 25-3 đến 1-4-1959, Bành Đức Hoài đã tổng hợp những điều mắt thấy tai nghe ở 6 Đại quân khu 10 tỉnh và thành phố. Ông nói thẳng:
– Các đồng chí đừng cho là tôi nói quá lời. Chính sách Đại tiến vọt phải chăng đã sai từ gốc rễ? Tôi cho rằng sai rồi. Cái sai không thể chỉ nói trong hội nghị, nếu không có biện pháp sửa đổi, hậu quả của nó chẳng những ảnh hưởng đến việc không có cách nào huấn luyện quân đội chuẩn bị chiến tranh, mà nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến vận mệnh và tương lai của đất nước. Đến lúc ấy, e rằng nhân dân không còn tin vào chủ nghĩa cộng sản nữa.
Mao Trạch Đông sợ ý kiến của Bành Đức Hoài ảnh hưởng đến người khác, vội chen vào:
– Ông nắm quân đội, không nên can thiệp nhiều như vậy, can thiệp nhiều quá, các đồng chí khác nhìn nhận ra sao? Những vấn đề một số đồng chí nói, tôi thấy chỉ là vụn vặt, chỉ là vấn đề bên dưới quán triệt không đầy đủ
Bành Đức Hoài vội tuyên bố:
– Thưa Chủ tịch, tôi không có ý gì khác, tôi nói như vậy là thật lòng vì uy tín của Chủ tịch và của Đảng ta.
Mao mỉm cười:
– Tôi hiểu, tôi hiểu, ông xưa nay vẫn vậy.
Sau cuộc họp, Chu Ân Lai sợ Bành Đức Hoài quá thẳng thắn mang vạ vào thân, đã gặp riêng Bành, lưu ý tình hình bây giờ không còn như thời kỳ chiến tranh nữa, phương pháp công tác phương pháp tư tưởng đều phải thay đổi cho phù hợp.
Từ 2 đến 5-4-1959, chuyển sang Hội nghị Trung ương 7 khoá 8, thông qua “Dự thảo kế hoạch kinh tế quốc dân năm 1959″ 18 vấn đề về công xã nhân dân”, “Phương án bộ máy nhà nước và nhân sự”, “Kế hoạch hùng vĩ kinh tế quốc dân tiếp tục Đại tiến vọt” với chỉ tiêu 18 triệu tấn thép, 525 triệu tấn lương thực.
Ngày 5, Mao phát biểu “16 điều về phương pháp công tác”, trong đó vẫn nhấn mạnh ông ta đại diện cho “đường lối đúng đắn” có lúc “chân lý không nằm ở phía số đông, mà nằm ở phía số ít hoặc một người”. Mao còn cảnh cáo những người từng phản đối ông ta. Mao đề cao Hải Thụy, một viên quan đời Mình đã dũng cảm phê bình, can ngăn hoàng đế. Mao đề xướng tinh thần Hải Thụy nhằm buông mồi dụ Bành Đức Hoài và Chu Ân Lai thẳng thắn nói hết ý kiến riêng, để kiếm cớ trừng trị vào lúc thích hợp.
Theo đề nghị của Mao, Hội nghị Trung ương 6 khoá 8 đã có quyết định tán thành để Mao thôi chức Chủ tịch nước CHND Trung Hoa khoá tới. Theo dự kiến danh sách lãnh đạo bộ máy nhà nước do Ban Tổ chức Trung ương chuẩn bị theo sự uỷ thác của Ban Bí thư, nguyên soái Chu Đức sẽ lên làm Chủ tịch nước, Lưu Thiếu Kỳ tiếp tục giữ chức Chủ tịch Quốc hội. Nhưng Chu Đức đã gửi thư cho Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình xin rút lui, và tiến cử Lưu Thiếu Kỳ. Trung ương ĐCSTQ và Mao Trạch Đông chấp nhận đề nghị trên. Kỳ họp thứ nhất Quốc hội Trung Quốc khoá 2 đã bầu Lưu Hiếu Kỳ làm Chủ tịch nước, Chu Đức làm Chủ tịch Quốc hội. Mao Trạch Đông về hình thức rút về tuyến 2, Chu Ân Lai tlêp tục được cử làm Thủ tưởng. Nhưng mãi đến Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng tháng 6-1960, khi Mao thừa nhận ông ta mắc sai lầm, thì Chu Ân Lai mới được phục hồi danh dự, chính thức gánh vác trách nhiệm Thủ tướng.