Sunday, October 13, 2024
Trang chủThâm cung bí sửBí ẩn đằng sau cuộc bức hại Pháp Luân Công (phần 2)

Bí ẩn đằng sau cuộc bức hại Pháp Luân Công (phần 2)

Vào ngày 5 tháng 2 năm 2001, đài CNN đưa tin phân tích, việc ông Giang Trạch Dân quyết định ra tay trấn áp Pháp Luân Công rất có thể là vì mục đích củng cố quyền lực chính trị của chính ông ta.

Giang Trạch Dân, Tăng Khánh Hồng lợi dụng sự kiện “ngày 8 tháng 5″

Vào ngày 5 tháng 2 năm 2001, đài CNN đưa tin phân tích, việc ông Giang Trạch Dân quyết định ra tay trấn áp Pháp Luân Công rất có thể là vì mục đích củng cố quyền lực chính trị của chính ông ta; bản tin còn nói rằng, các nhân vật lớn trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) lúc đó là Thủ tướng Chu Dung Cơ, Phó chủ tịch Hồ Cẩm Đào, Chủ tịch Ủy ban Chính trị Hiệp thương Lý Thụy Hoàn và Ủy viên Hội đồng Nhân dân Lý Bằng đều cho rằng ông Giang Trạch Dân đã vận dụng một chiến lược sai lầm.

Bình luận viên Hạ Tiểu Cường nói, lúc đó ông Giang Trạch Dân rõ ràng là muốn phân tán sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế đối với Thủ tướng Chu Dung Cơ qua thái độ tích cực của ông này trong sự kiện “ngày 25 tháng 4”, đồng thời lèo lái tầng lớp lãnh đạo trong nội bộ ĐCSTQ vốn không mấy mặn mà với việc trấn áp Pháp Luân Công. Ngoài ra ông Giang cũng muốn yên ổn vượt qua cái nguy cơ “Lục Tứ” vào mười năm trước, đồng thời đề phòng ông Chu Dung Cơ moi ra Cổ Khánh Lâm trong “Viễn Hoa án” để rồi họa vô đơn chí, liên lụy đến chính ông ta.

Các kênh truyền thông hải ngoại cũng đưa tin về chân tướng vụ việc Đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư bị oanh tạc, vào tháng 5 năm 1999 đã phát sinh sự kiện “Ngũ Bát” (tức sự kiện ngày 8 tháng 5), ông Giang ngẫu nhiên đã tìm được “đường sống”. Bấy giờ, nhờ sự hiến kế của ông Tăng Khánh Hồng, và sự tham dự của ông La Cán, ông Giang bí mật lập thành một “cục”: Mặc dù đã biết trước rằng tòa Đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư sẽ bị oanh tạc, bọn họ cũng không thông báo và cố ý không thực hiện một biện pháp ngăn chặn nào, nhằm xé to chuyện, chuyện xé càng to thì càng tốt.

Sau đó, ông Tăng Khánh Hồng đã hiến kế cho ông Giang Trạch Dân, sử dụng sự kiện “Ngũ Bát” để lung lạc Bộ chính trị, đồng thời âm mưu vào tháng 7 cùng năm sẽ công khai trấn áp Pháp Luân Công.

Sau khi sự kiện “Ngũ Bát” ở Nam Tư nổ ra, có một quan chức cao cấp trong cơ quan ngoại giao ĐCSTQ đã “vô cùng bế tắc”, sau đó ông chủ động từ chức và “ra hải ngoại” kinh doanh, thoát khỏi ĐCSTQ. Hơn mười năm trước, trong một lần đến khu phố Tàu ở nước Mỹ, ông ta nhìn thấy các học viên Pháp Luân Công đang phát tờ rơi nói về chân tướng cuộc thỉnh nguyện ở Trung Nam Hải ngày  25 tháng 4 năm 1999, ông rất cảm khái nói với họ rằng: “Tôi biết lời mọi người nói đều là sự thật, tôi còn biết được nhiều điều mờ ám hơn nữa.”

Vị cựu quan chức ngoại giao này còn tiết lộ với các học viên Pháp Luân Công rằng ông Giang Trạch Dân từng nung nấu ý định để cho ba nhà báo của ĐCSTQ bị thiệt mạng khi Mỹ oanh tạc tòa Đại sứ quán tại Nam Tư để xé to vụ việc, mục đích là phân tán sự chú ý của quốc tế đối với cuộc thỉnh nguyện của hàng vạn học viên Pháp Luân Công.

Cuốn sách “Ông ấy lãnh đạo Trung Quốc: Hồ Cẩm Đào tân truyện” (dưới đây gọi là “Hồ Cẩm Đào” tân truyện) cũng từng tiết lộ một vài bí mật.

Cuốn “Hồ Cẩm Đào tân truyện” chương thứ 8 từng dẫn nguồn tin cho biết, lúc đó “lỗi suy nghĩ” chủ đạo của phe ông Giang Trạch Dân tại Bộ chính trị như sau: Trong lúc nước Mỹ nhận định rằng cuộc vận động quần chúng của các nhân sĩ tri thức cũng không đủ thách thức nổi ĐCSTQ, nội bộ ĐCSTQ bị giải thể cũng là điều rất khó tưởng tượng, bỗng dưng xuất hiện Pháp Luân Công “vây ráp” Trung Nam Hải, điều này phải chăng đã cho nước Mỹ một tín hiệu, khiến cho họ nghĩ rằng những nhân tố bất ổn định tiềm ẩn trong xã hội Trung Quốc đang đến lúc bộc phát?

Nước Mỹ phải chăng đã thông qua thủ đoạn oach tạc này để chọc vào tinh thần dân tộc của Trung Quốc, dẫn đến một cuộc phản đối dữ dội? Cuối cùng chuyển hướng sự phẫn nộ ấy thành sự đối lập giữa chính quyền và dân chúng, rồi phát động một cuộc đối kháng chính quyền đầy quy mô thậm chí là bạo loạn?

Cuốn sách có dẫn các nội dung đến từ Văn phòng Trung ương Đảng cho biết, lúc đó, ông Tăng Khánh Hồng và ông Giang Trạch Dân đã thiết kế một loạt các phương án ứng đối, đại khái là: để cho dân chúng xả giận, chính phủ chỉ đóng vai dẫn đường; để cho một người chẳng hiểu biết gì nhiều về nước Mỹ như Phó chủ tịch Hồ Cẩm Đào xuất hiện, ông Hồ với vai trò đại diện cho chính quyền, phát biểu mấy câu xuýt xoa, ngừa việc dân chúng chuyển mũi giáo về chính quyền. Các phương án này đã được Bộ Chính trị chấp thuận.

Tăng Khánh Hồng và La Cán đã sớm chuẩn bị kế hoạch, Giang Trạch Dân quyết định chiến lược “ngoài cứng trong mềm”

Sự kiện đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư bị oanh tạc xảy ra vào 11 giờ đêm (theo giờ Nam Tư) ngày 7 tháng 5, giờ Bắc Kinh là 5 giờ sáng. Bản tin cho hay, vào lúc 3 giờ chiều cùng ngày, ông Tăng Khánh Hồng và ông La Cán đã sắp đặt sẵn nhân viên đặc công để chuẩn bị hành động, Đại học Bắc Kinh còn chuẩn bị xe để chở các sinh viên đi biểu tình.

Lúc đó, ông Tăng Khánh Hồng đã đứng đằng sau thao túng cục diện, các trường Trung học, Đại học đều nhận được thông báo để học sinh, sinh viên xuống đường. Ông Tăng Khánh Hồng lúc đó là Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương, cùng với một tâm phúc khác của ông Giang Trạch Dân là Vương Cương và Bí thư Ủy ban Chính trị và Pháp luật đương thời là ông La Cán sớm đã chuẩn bị văn kiện. Sự việc vừa phát sinh vào ngày 8 tháng 5, thì các văn kiện đã nhanh chóng truyền đến các trường học, cơ quan công an. Buổi sáng vừa xảy chuyện, buổi chiều sinh viên đã xuất hiện trên mọi ngả đường ở thành phố Bắc Kinh. Đến 4 giờ 30, sinh viên các trường đại học lớn ở Bắc Kinh như: Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, Đại học Sư phạm Bắc Kinh, Đại học Hàng không Hàng Thiên, Đại học Dân tộc Trung ương, Đại học Sư phạm Thủ đô, Đại học Quản lý Bắc Kinh đều tập kết trước Đại sứ quán Mỹ.

Sách lược của ông Giang Trạch Dân lúc đó là “ngoài cứng trong mềm”, biểu hiện ra ngoài với nước Mỹ thì vô cùng cứng rắn, nhưng thực tế thì rất là mềm mỏng. Đặc biệt là ông Giang có sự bất mãn khá lớn đối với ông Hồ Cẩm Đào khi ông này không ủng hộ cuộc đàn áp Pháp Luân Công, vẻ cứng mặt của ông Giang lúc ấy đã khiến cho ông Hồ phải “vác đít nồi” (ý nói là giơ lưng chịu đựng).

Vào 18 giờ ngày 9 tháng 5 năm 1999, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ông Hồ Cẩm Đào đã phát biểu trên truyền hình về việc Liên quân NATO do Mỹ đứng đầu oanh tạc Đại sứ quán Trung Quốc. Đối với sự kiện này, ông Hồ chỉ có thể nói qua loa là “mạnh mẽ lên án hành vi dã man của Liên quân NATO do nước Mỹ đứng đầu”, đồng thời ông Hồ cũng bày tỏ quan ngại đối với cuộc tuần hành của sinh viên: “Quảng đại nhân dân, quần chúng nhất định phải xuất phát từ lợi ích căn bản của nước nhà, phải tự giác bảo vệ cục diện, để cho những hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật”. Ngoài ra ông còn lên tiếng ngăn ngừa những hành vi “quá khích”, cảnh giác có người đục nước béo cò, làm rối loạn trật tự xã hội, nhắc tới vấn đề ổn định xã hội, vân vân.

Ông Hồ Cẩm Đào ra mặt nói những điều này, hình như đã chọc trúng bệnh tự ái của dân chúng. Đối với những sinh viên đang hừng hực lửa kích động kia, những lời của ông Hồ là ba phải, lạt như nước ốc.

Trong một số chi tiết có thể nhìn ra được thái độ của ông Giang và ĐCSTQ đối với sự kiện “Ngũ Bát”.

Một tác giả nổi tiếng với bút danh là “Tông Hải Nhân” (người ta đồn đoán rằng bút danh này đã tiết lộ một phần nào đó quan hệ của tác giả này với “Trung Nam Hải”) trong cuốn “Chu Dung Cơ vào năm 1999” có viết, Trung Quốc mang ba thi thể của ba vị “liệt sĩ” về kinh vào ngày 12 tháng 5. Căn cứ trên phương án vốn có của Trung ương ĐCSTQ, chỉ sắp xếp cho ba nhân vật trong Thường ủy Bộ Chính trị công khai nói lời chia buồn trên Tân Hoa Xã và Quang Minh Nhật Báo, đồng thời không tiến hành bất kỳ hoạt động rũ cờ tưởng niệm nào. Nhưng vào tối ngày 11 tháng 5, ĐCSTQ chặn được tin tình báo rằng, Đại sứ quán Mỹ và một số quốc gia khác thuộc khối NATO để rủ cờ tưởng niệm vào ngày 12. Sau đó ông Hồ có xin chỉ thị từ ông Giang. Nhằm tránh làm khó cho mình, hơn nữa lại sợ dân chúng oán giận, ông Hồ liền cập rập lấy danh nghĩa của Văn phòng Quốc vụ thông báo “trường hợp đặc biệt” xuống các địa điểm tại Tân Hoa Môn, Thiên An Môn, các tỉnh thành, các khu tự trị và những địa phương trực thuộc thành phố rũ cờ vào ngày 12. Điện báo được phát đi vào lúc mờ sáng ngày 12.

Trong cuốn sách “Truyện về Trương Vạn Niên” tiết lộ, vào ngày 8 tháng 5 theo giờ Bắc Kinh, tức cái ngày mà Đại sứ quán bị oanh tạc, vào lúc dầu sôi lửa bỏng như thế, ông Giang Trạch Dân giữa đêm hôm vẫn còn thì giờ “gửi gắm” tâm tư về việc phải đả kích Pháp Luân Công. Ông Giang đã gửi đi bức thư dài thứ ba liên quan đến Pháp Luân Công đến “Bộ Chính trị, phòng Bí thư và Quân ủy”.

Giang Trạch Dân trực tiếp dằn mặt Lý Kỳ Hoa, Trương Vạn Niên siết chặt cuộc bức hại

Sau sự kiện “Ngũ Bát”, đông đảo dân chúng Trung Quốc đã bị chọc giận, sự chú ý vào ông Giang Trạch Dân cũng bị phân tán, nhưng bản thân ông ta vẫn không từ bỏ được việc trấn áp Pháp Luân Công.

Cuốn “Hồ Cẩm Đào tân truyện” nói rằng, lúc Bộ Chính trị mở cuộc họp về sự kiện “Ngũ Bát”, ông Trương Vạn Niên từng biểu thị thái độ, cần phải “hình thành trong toàn dân một loại ý chí phản chiến nhưng không sợ chiến tranh”, “cần phải nghiên cứu phát triển ngay một loại vũ khí phòng ngự hoặc vũ khí phản công có thể khiến cho đối phương không thể dò tìm hoặc không thể dự tính được sức tàn phá”, “chuẩn bị kế hoạch nếu không gia nhập Tổ chức Mậu dịch Quốc tế”.

Nhưng, khi chúng ta lật xem những động thái của ông Trương trong hệ thống quân đội, việc trấn áp Pháp Luân Công lại trở thành công việc chủ yếu.

Trong cuốn sách “Truyện về Trương Vạn Niên”, vào ngày 5 tháng 5 ông Trương Vạn Niên đọc được bài viết mang tiêu đề “Những kiến giải thô thiển của một người cựu hồng quân, một đảng viên lão thành về Pháp Luân Công”. Bài viết này là do một cựu hồng quân viết để biện bạch cho Pháp Luân Công. Ông Trương đã viết mấy “lời phê” mang màu sắc bôi nhọ, vào giữa đêm ngày 8 tháng 5 (chính là ngày xảy ra sự kiện “Ngũ Bát”) cũng đã gửi thư cùng với “lời phê” đến cho ông Giang Trạch Dân. Ông Giang lại lần nữa gửi một bức thư dài cho “Bộ chính trị, phòng Bí thư và Quân ủy”. Ngày 9 tháng 5, ông Trương mở một cuộc họp lớn tại Quân ủy Trung ương để phổ biến.

Ngày 10 tháng 5, ông Trương Vạn Niên phái Cục trưởng Tổng cục Hậu cần Vương Khắc Hòa và Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Chu Khôn Nhân đích thân tìm gặp người cựu hồng quân nọ để nói chuyện, ngày 14 tháng 5, trong tay ông Trương đã có được một tờ “Báo cáo tư tưởng”.

Ngày 23 tháng 5, ông Giang Trạch Dân yêu cầu Văn phòng Trung ương đính kèm hai văn bản “Lý giải thô thiển của một vị cựu hồng quân, đảng viên lão thành về Pháp Luân Công” cùng với “Báo cáo tư tưởng” để phát đến toàn đảng, phối hợp trấn áp Pháp Luân Công.

Trong sách không nhắc đến tên tuổi của vị cựu hồng quân ấy là ai, nhưng nếu kết hợp nhiều nguồn tin khác của các kênh truyền thông lại với nhau, rất có thể người đó là cựu viện trưởng Viện Quân y 301 Lý Kỳ Hoa.

Theo mạng Minh Huệ ở hải ngoại đưa tin, một trong những nguyên nhân từ cuộc thỉnh nguyện “25 tháng 4” đã khiến ông Giang Trạch Dân trở nên giận quá mất khôn là, trong hàng ngũ những học viên Pháp Luân Công có mặt hôm đó có cả những quân nhân đang mặc quân phục. Sau đó ông Giang đã viết cho Bộ Chính trị và Quân ủy một mớ thư từ, tất cả đều căn cứ trên những cung cấp của ông Trương, ông Giang đã đặc biệt chỉ mặt ra ba người trong quân đội. Đứng đầu trong đó là cựu Viện trưởng viện Quân y 301 Lý Kỳ Hoa.

Theo nguồn tin được biết, ông Lý Kỳ Hoa là một chuyên gia y học khá có tiếng. Ông Lý bắt đầu tu luyện Pháp Luân Công vào năm 1993. Nguyên do là ông Lý có một người bạn thân bị mắc trọng bệnh đã mấy mươi năm, bản thân là viện trưởng, trong tay nắm rất nhiều phương pháp trị liệu tiên tiến nhưng vẫn phải bó tay. Người bạn này sau khi tu luyện Pháp Luân Công một đoạn thời gian thì các triệu chứng liền biến mất. Ông Lý vô cùng ngạc nhiên và đã đến nghe Ngài Lý Hồng Chí giảng pháp trực tiếp, ông nhận thấy Pháp Luân Công là chân chính, đồng thời cũng là một dạng khoa học cao cấp.

Ông Lý nói: “Kỳ thực, không chỉ có một mình tôi là cảm thấy như vậy, theo tôi được biết, tại nhóm học pháp của tôi ở Bắc Kinh, có vài người cũng đã vào hàng 70, 80 trở lên. Tuổi đảng của họ đã đến mấy mươi năm rồi, rất nhiều người được gọi là “cán bộ lão thành”, “nhà khoa học lão thành”,  “giáo sư lão thành”, toàn là những người ở tầng lớp lãnh đạo cấp cao và thành phần tri thức. Những người này hoàn toàn không đui mù, không phải là loại người có đầu óc đơn giản, tất cả họ đều trải qua một quá trình suy nghĩ nghiêm túc mới bước vào hàng ngũ những người tu luyện. Bọn họ cũng giống như tôi, trong những năm tháng xế chiều mới đắc được Pháp của Thầy Lý Hồng Chí, tất cả đều cảm thấy thật may mắn, thật hữu duyên, thật quý giá”.

Vị cán bộ lão thànhh hơn 80 tuổi này đã phải chịu một áp lực khá lớn, ông Trương Vạn Niên không ngừng phái người đến “nói chuyện”, sử dụng chiến thuật hành hạ, ép ông Lý “kiểm điểm” và từ bỏ tu luyện, cuối cùng ông Trương đã moi ra được một bản “Báo cáo tư tưởng”.

Bài viết còn nói, phần văn bản “kiểm điểm” đính kèm với chữ ký và phần viết tay có nhiều chỗ bất đồng, những đoạn dài ở trên là do người khác viết thay, ông Lý căn bản là không biết. Sau đó ông Lý cũng không được thảnh thơi, ngày nào cũng có người tìm đến “nói chuyện”. Ngoài ra những hành động của ông Lý cũng bị ba người được cấp trên phái đến kiểm soát chặt chẽ, không cho xuống lầu, không cho nghe điện thoại, cách ly hoàn toàn với bên ngoài.

Một nhân vật lão thành trong quân đội khác bị ông Giang Trạch Dân điểm danh là ông Vu Trường Tân, 74 tuổi, với thân phận là Giáo sư chính quy Học viện Chỉ huy Không quân, cũng là lứa phi công đầu tiên của Trung Quốc, một “công thần” hạng nhì. Sau khi đến với Pháp Luân Công, ông Vu Trường Tân đã lĩnh hội được rằng đây là một môn khoa học chân chính. Cuối cùng, ông đã bị Tòa án Quân sự phán cho 17 năm tù, ngoài ra còn phải chịu nhiều nhục hình. Người vợ ở tuổi thất tuần của ông là bà Khương Xương Phong cũng bị đuổi khỏi nhà tập thể Không quân, không chốn nương thân, cuối cùng lại bị xử kín và bị giáng cho 10 năm tù.

Ông Giang Trạch Dân chuẩn bị mọi mặt cho cuộc bức hại Pháp Luân Công vào tháng 7

Có nguồn tin nói rằng, năm 1999 đã được xác định là “mùa thu nhiều sự kiện”, đó là thời gian tròn mười năm kể từ phong trào “Lục Tứ”. Sự kiện “Ngũ Bát” nổ ra đã trở thành tiêu điểm chú ý cho các kênh truyền thông lúc bấy giờ, ông Giang Trạch Dân đã lợi dụng những điều này, vì để tranh thủ thời gian cho cuộc bức hại Pháp Luân Công vào tháng 7, ông ta cũng đã có nhiều hành động chuẩn bị trong giai đoạn này.

Ngày đánh dấu tròn mười năm sự kiện “Lục Tứ” vừa trải qua mấy ngày, ông Giang đã triển khai toàn diện cuộc trấn áp nhắm vào Pháp Luân Công, có hai sự kiện khơi mào. Thứ nhất là nhắc đến chuyện thắt chặt và giải quyết “vấn đề Pháp Luân Công” vào ngày 7 tháng 6 năm 1999. Nội dung những phát ngôn này được lưu hành bí mật trong nội bộ ĐCSTQ vào ngày 13 tháng 6.

Vào ngày 7 tháng 6, ông Giang đã công khai ý đồ trong bản kế hoạch trấn áp Pháp Luân Công tại hội nghị Trung ương ĐCSTQ.

Trong quá trình phát biểu, đối với sự cố của Đại sứ quán ở Nam Tư, ông Giang chỉ qua loa mấy lời, ông chỉ nói “điều này đã khiến cho nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới phẫn nộ sâu sắc”. Ngay sau đó, ông ta liền một hơi thừa nhận rằng, mình đang cân nhắc làm thế nào để đối phó với Pháp Luân Công, “từ ngày 25 tháng 4 trở lại, tôi cứ một mực suy nghĩ, đảng ta đã trải qua 80 năm cách mạng và kiến thiết, nắm giữ chính quyền quốc gia, Quân đội Nhân dân có đến 2.500.000 người, có hơn 60 triệu đảng viên, có cả một đội ngũ cán bộ lãnh đạo bề thế. Tại sao lại để vấn đề ‘Pháp Luân Công’ nổi trội lên như thế, lại còn náo loạn đến mức độ ấy?”

Cũng nằm trong kế hoạch trấn áp Pháp Luân Công, “phòng 610” được thành lập. Nhằm tạo tiền đề cho công cuộc “tăng sức tập trung, chiến đấu” để đối kháng với nước Mỹ, ông Giang đã chi phối Bộ Chính trị để hành động: Trung ương đã đồng ý ông Lý Phong Thanh phụ trách, thành lập một “tổ chuyên xử lý vấn đề Pháp Luân Công”. Ông Lý Phong Thanh là tổ trưởng, ông La Cán là tổ phó, những thành viên trong tổ đều thống nhất nghiên cứu các bước, phương thức và biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề Pháp Luân Công, đồng thời yêu cầu Bộ, Ủy các cấp, các tỉnh, các khu tự trị, các thành phố trực thuộc phải phối hợp chặt chẽ.

Cũng trong lần phát biểu này, ông Giang cũng bắt đầu tung tin đồn về Pháp Luân Công, để chứng minh rằng quyết định lúc đó của ông ta là anh minh. Cái ý ngoài lời là, ai phản đối trấn áp Pháp Luân Công, phản đối “tăng cường sức tập trung”, thì người đó là kẻ cấu kết với ngoại bang trong sự kiện “Ngũ Bát” nhằm âm mưu bán nước.

Trong năm ấy, ông Giang Trạch Dân, ông Tăng Khánh Hồng đồng lõa với Bí thư Ủy ban Chính trị và Pháp luật La Cán, từng bước từng bước thi hành kế hoạch của mình trong lòng sự kiện “Ngũ Bát”. Một bước đi khá quan trọng trong kế hoạch đó là thành lập “tổ lãnh đạo Trung ương chuyên xử lý vấn đề Pháp Luân Công” vào ngày 10 tháng 6 năm 1999, mốc thời gian đó đã được lấy để làm tên cho tổ chức này, tức phòng “610”, do những người như ông Lý Phong Thanh, La Cán phụ trách, ông Lý Phong Thanh là tổ trưởng. Tên gọi hành chính của cơ quan này là  “Phòng ngăn ngừa và xử lý các vấn đề tà giáo của Quốc vụ viện”.

Phòng 610 xuất hiện, đã khiến cho cơ cấu của ĐCSTQ sau này có hai hệ thống quyền lực xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Bởi vì yêu cầu trấn áp Pháp Luân Công, phòng 610 tại bất cứ đâu và bất cứ lúc nào đều có thể tập trung mọi nguồn lực và chính sách quốc gia để phục vụ cho hoạt động của mình, vượt qua mọi quyền hạn.

Ngày 20 tháng 7 năm 1999, cuộc trấn áp Pháp Luân Công được triển khai toàn diện.

Những ghi nhận của tác giả bài viết

Sau ngày 20 tháng 7, tập đoàn ông Giang Trạch Dân đã huy động toàn bộ cơ cấu chính phủ nhảy vào một cuộc trấn áp tàn khốc vô tiền khoáng hậu cả trên phương diện tinh thần và thể xác đối với các học viên Pháp Luân Công, đó là một tội ác phi nhân tính và diệt chủng.

Trong thời kỳ đầu của cuộc trấn áp, bản thân ông Giang đã hò hét rằng sẽ “tiêu diệt Pháp Luân Công trong vòng ba tháng”, nhưng bản thân ông Giang và ĐCSTQ không ngờ rằng, Pháp Luân Công đến ngày nay đã được truyền ra khắp nơi trên thế giới, trên 100 quốc gia và các địa phương. Tác phẩm chủ yếu của Pháp Luân Công là cuốn Chuyển Pháp Luân đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, được các dân tộc hoan nghênh và trân quý. Ngài Lý Hồng Chí và Pháp Luân Công đã đạt được hơn 1000 giải thưởng trên khắp thế giới, rất nhiều chính phủ đã tuyên bố “ngày Pháp Luân Đại Pháp”, “tuần Pháp Luân Đại Pháp”,  “tháng Pháp Luân Đại Pháp”, “Ngày Lý Hồng Chí”, vân vân, khắp nơi đều cảm tạ Ngài Lý Hồng Chí, hoan nghênh các đoàn thể tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Tán dương Pháp Luân Đại Pháp đã khuyến khích con người hướng thiện, khởi lên tác dụng khôi phục đạo đức xã hội hết sức to lớn.

Cuộc bức hại Pháp Luân Công đến nay đã được 16 năm, tập đoàn ông Giang Trạch Dân và ĐCSTQ vẫn tiếp tục duy trì trấn áp, điều này vô tình khiến cho dân chúng cả trong lẫn ngoài Trung Quốc đều biết đến Pháp Luân Công. Người tu luyện Pháp Luân Công bề ngoài mềm mỏng, nhưng ý chí vô cùng kiên cường, suốt mười sáu năm qua, họ không ngừng giảng chân tướng, truyền bá “Cửu bình”, nghiên cứu các phần mềm đột phá tường lửa, khiến cho dân chúng Trung Quốc biết được chân tướng của ĐCSTQ.

Hiện nay, hưởng ứng phong trào “Tam thoái” (thoái xuất khỏi Đảng, Đoàn, Đội) đã có hơn 200 triệu người Trung Quốc tỏ thái độ dứt khoát với ĐCSTQ. ĐCSTQ đang đứng trước nguy cơ tan rã, công cuộc “đã hổ”, “chống tham” của ông Tập Cận Bình cũng đang siết chặt vòng vây đối với tập đoàn của ông Giang Trạch Dân và Tăng Khánh Hồng.

RELATED ARTICLES

Tin mới