Wednesday, April 24, 2024
Trang chủĐàm luậnKẻ gieo gió nhất định sẽ gặt bão! (Kỳ II)

Kẻ gieo gió nhất định sẽ gặt bão! (Kỳ II)

Với việc sử dụng công nghệ nạo vét hiện đại để lấy hàng triệu tấn đá, cát từ đáy đại dương và bơm lên các thực thể tạo thành đảo mới, Trung Quốc đã phá hủy các rặng san hô để lấy nguyên vật liệu bồi đắp các đá…

 

Các hoạt động tôn tạo các đảo, đá của Trung Quốc đã đe dọa nghiêm trọng môi trường Biển Đông.

II- Trung Quốc kẻ tàn phá môi trường biển

Hành vi này của Trung Quốc đã vi phạm các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, làm tổn hại hơn 300 ha rặng san hô biển, gây tổn thất ban đầu hơn 100 triệu USD mỗi năm cho các nước xung quanh Biển Đông và những tổn thất không thể bù đắp cho môi trường. Đồng thời, việc bồi đắp các cấu trúc địa lý đã làm ô nhiễm môi trường sinh thái, phá hủy môi trường sống của các loài sinh vật biển, trong đó có cả các sinh vật quý hiếm, ở khu vực này. Theo đánh giá của các cơ quan chức năng Philippins, hoạt động của Trung Quốc đã phá hủy hơn 1,21 km san hô tự nhiên và gây thiệt hại khoảng 108,9 triệu USD/năm cho ngư dân các nước trong khu vực do suy giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi hải sản tại quần đảo Trường Sa.

Hoạt động của Trung Quốc đã vi phạm các quy định về bảo vệ và bảo tồn môi trường biển và hợp tác bảo vệ môi trường biển của UNCLOS 1982. Trung Quốc cũng vi phạm quy định của Công ước của Liên hợp quốc về bảo vệ đa dạng sinh học năm 1992 liên quan tới nghĩa vụ không để các hành động do mình kiểm soát gây hại đến môi trường của các quốc gia khác và nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường.

Thế nhưng, Trung Quốc đã không tuân thủ các nghĩa vụ quy định trong luật môi trường quốc tế, nạo vét hàng trăm triệu tấn cát từ đáy biển lấp hơn 8 triệu mét vuông rạn san hô mà không cần bất cứ đánh giá nào của các chuyên gia và không có bất kỳ sự phối hợp hay tham vấn với các quốc gia ven biển khác. Mặt khác, các hoạt động này còn vi phạm Nghị quyết của các Hội nghị môi trường thế giới, đi ngược lại chủ trương bảo vệ các rạn san hô ở Biển Đông của các tổ chức môi trường quốc tế mà Trung Quốc là thành viên như Cơ quan điều phối các vùng biển Đông Á (COBSEA) hay Tổ chức đối tác quản lý môi trường các vùng biển Đông Á (PEMSEA) và các tổ chức khác; vi phạm nguyên tắc phải tham vấn các nước liên quan trước khi thực hiện các hoạt động có khả năng gây tổn hại môi trường biển.

Ngoài ra, việc phá hoại môi trường biển của Trung Quốc dẫn đến tài nguyên hải sản cạn kiệt làm cho hàng trăm triệu ngư dân sống bằng nghề đánh cá, khai thác thủy hải sản của các quốc gia ven Biển Đông bị ảnh hưởng năng nề. Về khía cạnh này, phán quyết của Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS ngày 12/7/2016 về vụ kiện của Philippines kiện Trung Quốc đã nhận định rằng, “Xét thấy đối với việc bảo vệ và bảo tồn môi trường biển ở Biển Đông: a. Các hoạt động cãi tạo và xây dựng đảo nhân tạo, công trình tại đá Châu Viên, đá Chữ Thập, đá Gaven Bắc, đá Gạc Ma, đá Huy Gơ, bãi Xubi, và bãi Vành Khăn đã gây nên những tổn hại nghiêm trọng , không thể hồi phục cho hệ sinh thái san hô; b. Trung Quốc đã không hợp tác và phối hợp với các quốc gia trong khu vực Biển Đông để bảo vệ và bảo tồn môi trường biển khi tiến hành cãi tạo và xây dựng đảo và; c. Trung Quốc đã không thực hiện đánh giá tác động tiềm tàng của các hoạt động kể trên đối với môi trường biển theo quy định tại Điều 206 của Công ước và tuyên Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ quy định tại Điều 123, 192, 194 (1), 194 (5), 197 và 206 của Công ước nhân tạo, công trình, cấu trúc, các bằng chứng về điều kiện tự nhiên của đá Vành Khăn, đá Châu Viên, đá Chữ Thập, đá Gaven Bắc, đá Gạc Ma, đá Huy Gơ và đá Subi ”.

Cuối cùng là, Trung Quốc không thể chối cãi, họ đã đe dọa hoạt động hàng hải, hàng không và thương mại quốc tế

Hoạt động xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa đã, đang và sẽ cản trở, đe dọa tự do hàng hải, hàng không, thương mại khu vực và thế giới. Đồng thời, đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế, làm gia tăng chạy đua vũ trang trong khu vực và thế giới. Bởi vì, nhằm mục đích bảo vệ các đảo nhân tạo phi pháp, Trung Quốc đã ngang ngược tuyên bố thiết lập một vùng biển 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo và cấm tàu thuyền, máy bay của các quốc gia khác hoạt động trong vùng biển và vùng trời trên các đảo nhân tạo đó. Và thực tế, Trung Quốc luôn lớn tiếng đe dọa sẽ sử dụng vũ lực đối với các tàu thuyền và máy bay “xâm phạm” vùng biển xung quanh đảo nhân tạo và vùng trời trên chúng.

Hình ảnh chụp từ vệ tinh mới nhất đã khẳng định, Trung Quốc đang xây dựng căn cứ quân sự trên một số bãi đá, bao gồm đường băng, đơn vị đồn trú của quân đội, hỏa lực phòng không, hỏa lực mặt đất, radar cũng như các thiết bị thông tin liên lạc quân sự khác. Điều đó sẽ làm tăng khả năng Trung Quốc tiến hành tuần tra (bất hợp pháp) các vùng biển xung quanh, do thám hoạt động của các bên yêu sách khác và khiến Trung Quốc dễ dàng hơn trong việc bành trướng yêu sách lãnh thổ (vô lý, phi pháp) của họ, trong khi đẩy lùi những nỗ lực, thiện chí hòa bình của các bên khác.

Trung Quốc đã chứng minh rằng họ luôn sẵn sàng sử dụng các công cụ, thủ đoạn gây mất ổn định Biển Đông. Điển hình là cuộc khủng hoảng Scarborough năm 2012 hay khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thểm lục địa của Việt Nam năm 2014, rồi đưa cả tàu quân sự đến vùng biển của Malaysia, Indonesia và vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku của Nhật Bản.

Trước thực tế đó, bắt buộc các quốc gia trong khu vực phải chạy đua vũ trang, tăng cường củng cố, mua sắm trang thiết vũ khí, khí tài quân sự, hiện đại hóa quân đội, cảnh sát biển, lực lượng kiểm ngư; liên minh, liên kết với ngoài khu vực như Mĩ, Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, Nga, các nước trong khối G7 nhằm đối phó với Trung Quốc. Rất tiếc điều đó đã và đang xảy ra và được minh chứng bởi số lượng và tần suất các cuộc tập trận và tuần tra trên Biển Đông giữa các nước trong khu vực với Mĩ, Nhật Bản, Úc, Nga ngày càng gia tăng.

Hoạt động xây dựng đảo nhân tạo và các hành vi gần đây trên Biển đông cho thấy Trung Quốc đang hướng tới mục đích cơ bản: củng cố và mở rộng tham vọng, yêu sách phi pháp về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của họ trên Biển Đông theo một lộ trình trái pháp luật quốc tế gồm các 5 bước: (1) Tấn công, chiếm đóng trái phép các đá và bãi cạn lúc nổi lúc chìm ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam; (2) cãi tạo, bồi đắp, xây dựng đảo nhân tạo và cơ sở vật hạ tầng; (3) yêu sách vùng biển 12 hải lý xung quanh đảo nhân tạo; (4) quân sự hóa các đảo nhân tạo; (5) liên kết 3 điểm chiến lược tiền tiêu án ngữ toàn bộ cửa ngõ ra vào Biển Đông là đảo Hải Nam, quần đảo Hoàng Sa và các đá trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng.

Đây là 3 điểm “yết hầu” có vị trí địa -chính trị, quân sự, kinh tế, thương mại, hàng hải, hàng không của khu vực và thế giới hòng “độc chiếm Biển Đông”, là âm mưu có tính toán, bài bản từ lâu của Trung Quốc.

Kẻ gieo gió nhất định sẽ gặt bão!

RELATED ARTICLES

Tin mới