Thursday, April 25, 2024
Trang chủBiển nóngQuyền đánh cá truyền thống và Vùng nước lịch sử ở Biển...

Quyền đánh cá truyền thống và Vùng nước lịch sử ở Biển Đông: Nhìn từ khía cạnh luật quốc tế

Trung Quốc liên tục sử dụng lập luận cho rằng Bắc Kinh có “chủ quyền lịch sử” đối với khu vực Biển Đông và khu vực này là ngư trường truyền thống của Trung Quốc. Tuy nhiên, những tuyên bố, lập luận trên của Trung Quốc chỉ là cách để nước này chống chế, biện minh cho tuyên bố chủ quyền phi pháp ở Biển Đông.

Về “quyền đánh cá truyền thống” trong luật pháp quốc tế

Theo thuật ngữ “đánh cá truyền thống”được dùng để phản ánh một thực tiễn đánh bắt hải sản từ xa xưa của cộng đồng ngư dân tại một số ngư trường. Đó là những nơi mà theo kinh nghiệm cho thấy chúng có khả năng giúp cho họ luôn luôn được thuận buồm xuôi gió, tránh được những thiên tai địch họa… trong mỗi chuyến ra khơi. Cộng đồng ngư dân của nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia chậm phát triển hay đang phát triển, đều rất quý trọng truyền thống này như là bảo bối để mưu sinh. Vì vậy, trong quá trình tiến hành Hội nghị Luật Biển của Liên Hợp Quốc lần thứ 3, nhiều đại biểu tham gia Hội nghị đã đề xuất ý kiến cần duy trì và tôn trọng quyền “đánh cá truyền thống”. Nói một cách khác là “quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên” trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Nhưng cuối cùng, sau một thời gian thương lượng, Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 của Liên Hợp Quốc đã bác bỏ đề xuất này, vì cho rằng việc đưa quyền “đánh cá truyền thống” sẽ làm cho tình trạng tranh chấp trên biển thêm phức tạp. 

Mặc dù quyền “đánh cá truyền thống” không trở thành một chế định riêng, nhưng Công ước vẫn có tính đến quyền tham gia khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật của các quốc gia khác, có biển hay không có biển, trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của quốc gia ven biển. Những nội dung này nằm trong các quy định quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia ven biển, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Cụ thể:

Điều 51 về các điều ước hiện hành, các quyền đánh bắt hải sản truyền thống và các dây cáp ngầm đã được lắp đặt quy định : (1) Không phương hại đến Điều 49, các quốc gia quần đảo tôn trọng các điều ước hiện hành đã được ký kết với các quốc gia khác và thừa nhận các quyền đánh bắt hải sản truyền thống và những hoạt động chính đáng của những quốc gia kế cận trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo và quốc gia quần đảo. Các điều kiện và thể thức thực hiện các quyền và các hoạt động này, kể cả tính chất, phạm vi của chúng và cả khu vực thực hiện các quyền và các hoạt động nói trên, được xác định theo yêu cầu của bất cứ quốc gia nào trong các quốc gia hữu quan qua các điều ước tay đôi được ký kết giữa các quốc gia đó. Các quyền này không được chuyển nhượng hay chia sẻ cho quốc gia thứ ba hay cho các công dân của các quốc gia ấy. (2) Các quốc gia quần đảo tôn trọng các dây cáp ngầm hiện có của những quốc gia khác đặt và đi quan vùng nước của quốc gia quần đảo mà không đụng đến bờ biển của mình. Các quốc gia quần đảo cho phép bảo dưỡng và thay thế các đường dây cáp này sau khi họ đã được thông báo trước về vị trí của chúng và về những công việc bảo dưỡng hay thay thế dự định tiến hành.

Về  vùng nước lịch sử  trong luật pháp quốc tế

Khái niệm và quy chế pháp lý của vùng nước lịch sử không được đề cập trong UNCLOS mà được xác định thông qua thông lệ và tập quán quốc tế. Theo đó, vùng nước lịch sử là vùng nước có các yếu tố sau: Là vùng biển có cấu tạo địa lý đặc biệt, ăn sâu vào đất liền hoặc là một bộ phận gắn liền với lục địa; Ở cách xa đường hàng hải quốc tế; Có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về chiến lược, quốc phòng, an ninh, kinh tế,… đối với quốc gia ven biển. Về mặt lịch sử, quốc gia ven biển đã chiếm hữu, khai thác, sử dụng từ lâu đời mà không có nước nào phản đối và vùng nước lịch sử có chế độ nội thủy.

   Theo nghiên cứu của Ủy ban Luật Quốc tế của Liên Hiệp Quốc vào năm 1962 về chế độ pháp lý đối với vùng nước lịch sử, bao gồm vịnh lịch sử, việc hình thành danh nghĩa lịch sử là quá trình thụ đắc quyền lịch sử, trong đó nêu rõ các yếu tố để xác định có tồn tại danh nghĩa đối với vùng nước lịch sử hay không dựa vào: (1) Quốc gia thực thi chủ quyền đối với vùng biển quốc gia yêu sách là vùng nước lịch sử; (2) Việc liên tục thực thi chủ quyền đó; (3) Sự công nhận của các quốc gia khác.

Cùng với sự phát triển của luật biển quốc tế, đa số các quyền lịch sử hiện nay đã được thay thế bởi quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế. Quyền lịch sử của các quốc gia khác nếu có được thiết lập cũng phải nhường hiệu lực cho quyền chủ quyền và quyền tài phán mà UNCLOS quy định là đặc quyền cho các quốc gia ven biển.

Về “quyền đánh cá truyền thống” và “vùng nước lịch sử” trong yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông

Trong nhiều năm trở lại đây, Trung Quốc liên tục cho rằng “Bắc Kinh có quyền từ xưa và chủ quyền lịch sử đối với các bãi ngầm, bãi đá ở Biển Đông”, và rằng “Biển Đông là ngư trường truyền thống của ngư dân Trung Quốc”, đồng thời phản bác lại các tuyên bố chủ quyền của các nước đối với vùng biển này. Tuy nhiên, Trung Quốc không đưa ra được bằng chứng thuyết phục và các lập luận liên quan yêu sách “chủ quyền” trên, cố tình mập mờ trong việc giải thích cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ bản chất yêu sách chủ quyền của mình.

Và để giải đáp cho những thắc mắc của cộng đồng quốc tế, Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII của Liên hợp quốc (7/2016) đã ra phán quyết liên quan Philippines kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông. Trong số các vấn đề khởi kiện, Philippines đã yêu cầu Tòa làm rõ các yêu sách của Trung Quốc về các quyền chủ quyền và quyền tài phán, và đối với “các quyền lịch sử”, đối với các vùng biển trên Biển Đông nằm bên trong gọi là “đường chín đoạn” là trái với UNCLOS và không có hiệu lực pháp lý trong chừng mực mà chúng vượt quá các giới hạn địa lý và thực chất của các vùng biển mà Trung Quốc có quyền được hưởng theo UNCLOS.

Trong phán quyết của Tòa đã làm rõ yêu sách “quyền đánh cá truyền thống” và “vùng nước lịch sử” của Trung Quốc ở Biển Đông là không phù hợp với luật pháp quốc tế, hay nói cách khác, Trung Quốc hoàn toàn không có “quyền đánh cá truyền thống” và “vùng nước lịch sử” ở Biển Đông. Cụ thể :

Tòa Trọng tài nhận thấy có thẩm quyền để xem xét tranh chấp giữa các bên liên quan đến quyền lịch sử và nguồn của quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông. Về mặt nội dung thực chất, Tòa kết luận rằng UNCLOS quy định một cách toàn diện về các quyền đối với các vùng biển và việc bảo vệ các quyền tồn tại trước UNCLOS liên quan đến tài nguyên đã được xem xét, nhưng chúng không được thông qua và quy định tại UNCLOS. Theo đó, Tòa kết luận rằng trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong UNCLOS. Tòa cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Tòa kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn.

Tòa Trọng tài xem xét đến quyền hưởng các vùng biển và quy chế của các cấu trúc. Trước tiên, Tòa tiến hành đánh giá liệu một số bãi do Trung Quốc yêu sách có nổi khi thuỷ triều lên đỉnh hay không. Các cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao sẽ tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý trong khi các cấu trúc chìm khi thuỷ triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy. Tòa nhận thấy rằng các bãi này đã bị làm biến đổi mạnh mẽ do việc bồi đắp, xây dựng và Tòa cũng nhắc lại rằng UNCLOS phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của chúng và dựa vào các tài liệu lịch sử để đánh giá các cấu trúc. Sau đó, Tòa tiến hành đánh giá liệu các có cấu trúc nào trong số các cấu trúc do Trung Quốc yêu sách có thể tạo ra vùng biển ngoài phạm vi 12 hải lý không. Theo UNCLOS, các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa nhưng các “đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”. Tòa kết luận rằng quy định này phụ thuộc vào khả năng khách quan của các cấu trúc khi chúng ở tình trạng tự nhiên để có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có tính chất khai thác. Tòa cũng nhận thấy rằng sự có mặt của các nhân viên công vụ trên các cấu trúc là phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và không phản ánh khả năng của các cấu trúc. Tòa cũng thấy rằng các bằng chứng lịch sử có ý nghĩa hơn và nhận thấy quần đảo Trường Sa trong lịch sử được sử dụng bởi một số nhóm nhỏ các ngư dân và rằng đã có một vài hoạt động khai thác phân dơi và đánh cá của Nhật Bản. Tòa kết luận rằng việc việc sử dụng ngắn hạn như vậy không phải là sự định cư của một cộng đồng ổn định và rằng các hoạt động kinh tế trong lịch sử chỉ là hoạt động mang tính khai thác. Theo đó, Tòa kết luận rằng không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng. Tòa cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất.

Hành động của Trung Quốc ở Biển Đông vi phạm luật pháp quốc tế và xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền cũng như quyền tài phán của Việt Nam

Bộ Ngoại giao Việt Nam nhiều lần tuyên bố khẳng định có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hoạt động của nước ngoài liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam mà không được phép của Việt Nam đều là vi phạm chủ quyền của Việt Nam và không có giá trị pháp lý. Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực chiếm đóng phi pháp các đảo, đá, bãi cạn của Việt Nam là vi phạm luật pháp quốc tế và cái gọi là “chủ quyền” của Trung Quốc ở Biển Đông hoàn toàn không được luật pháp cũng như cộng đồng quốc tế thừa nhận.

Vì vậy, Trung Quốc cần chấm dứt ngay các hoạt động này, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa; nghiêm túc tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS cũng như DOC, không có những hành động làm phức tạp tình hình, thay đổi nguyên trạng, quân sự hóa ở Biển Đông.

RELATED ARTICLES

Tin mới