Thursday, April 25, 2024
Trang chủBiển nóngTQ tiếp tục quân sự hóa phi pháp ở Biển Đông nhằm...

TQ tiếp tục quân sự hóa phi pháp ở Biển Đông nhằm tạo thế “độc tôn” trong khu vực

Giám đốc tình báo quốc gia Mỹ Dan Coats (29/1) cho biết cơ quan này đã trình Thượng viện bản báo cáo đánh giá thường niên trong đó nhận định Trung Quốc dường như tiếp tục tăng cường hiện diện ở Biển Đông, xây dựng các cơ sở quân sự trái phép ngụy trang bằng lớp vỏ dân sự.

Hình ảnh cho thấy Trung Quốc xây dựng trái phép trên khu vực Đá Xu Bi của Việt Nam

Trung Quốc lại tìm cách quân sự hóa phi pháp ở Biển Đông?

Theo nhận định của ông Dan Coats, năng lực và tầm ảnh hưởng của quân đội Trung Quốc tiếp tục mở rộng khi họ đổ tiền phát triển các vũ khí hiện đại, Bắc Kinh sẽ dùng sức mạnh quân sự để mở rộng tầm ảnh hưởng cả về kinh tế, chính trị như dự án “Một vành đai, Một con đường”; theo xu hướng này, Mỹ dự đoán Trung Quốc sẽ tiếp tục tìm cách củng cố và tăng cường kiểm soát hơn tầm ảnh hưởng ở Biển Đông và sự hiện diện ở nước ngoài. Ngoài ra, Báo cáo cũng cho rằng, Trung Quốc tìm cách giành sự kiểm soát đối với các vùng biển trên Biển Đông, buộc cách bên tranh chấp chấp nhận yêu sách của mình. Trong khi đó, Trung Quốc dường như tiếp tục xây dựng trái phép các cơ sở hạ tầng hỗn hợp dân sự và quân sự ở quần đảo Trường Sa.

Cùng ngày, phát biểu tại phiên điều trần thảo luận về những thách thức từ sức mạnh quân sự gia tăng của Trung Quốc và Nga, Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ, Thượng nghị sĩ Cộng hòa James Inhofe cho biết sự mở rộng phi pháp của Bắc Kinh đối với các đảo ở Trường Sa (của Việt Nam) đã và đang gây bất bình sâu sắc đối với các nước láng giềng và tiếp tục thách thức luật pháp quốc tế. Hải quân Mỹ đã không ngừng tiến hành các chiến dịch tự do hành hải tới khu vực này để thách thức Bắc Kinh; khẳng định Mỹ cần theo dõi sát những yêu sách “chủ quyền” của Bắc Kinh đối với các đá và đảo trước khi họ biến các rạn san hô khác thành pháo đài trữ đầy vũ khí.

Mỹ đã từng lần yêu cầu Trung Quốc ngừng quân sự hóa Biển Đông

Trong cuộc đàm phán cấp cao tại Washington với sự có mặt của Ngoại trưởng Mike Pompeo, Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis, Ủy viên bộ chính trị Trung Quốc Dương Khiết Trì và Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa (9/11/2018), các quan chức hàng đầu của Mỹ đã yêu cầu Trung Quốc ngừng các hành động quân sự hóa ở Biển Đông. Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeochỉ trích Trung Quốc xây dựng các căn cự quân sự trên các đảo nhân tạo mà nước này bồi đắp phi pháp trên Biển Đông, đồng thời bày tỏ quan ngại về các hoạt động và hành động quân sự hóa của Trung Quốc tại Biển Đông, yêu cầu Trung Quốc phải thực hiện các cam kết trong quá khứ của họ – về việc không quân sự hóa ở Biển Đông. Đáng chú ý, Thông cáo chung sau cuộc họp nhấn mạnh Mỹ kêu gọi Trung Quốc rút hệ thống tên lửa khỏi các thực thể tranh chấp ở quần đảo Trường Sa và tái khẳng định rằng tất cả các nước nên tránh giải quyết các tranh chấp thông qua cưỡng chế hoặc đe dọa.

Mỹ đã nhiều lần chỉ trích “hoạt động quân sự hóa liên tiếp của Trung Quốc tại các thực thể đang tranh chấp” ở Biển Đông. Đáng chú ý, phát biểu tại Shangri-La 2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis cho biết: “Chúng tôi đã cảnh báo Bắc Kinh là sẽ phải đối mặt với một loạt thách thức và cơ hội trong những năm sắp tới. Chúng tôi sẵn sàng ủng hộ, nếu Trung Quốc chọn lựa hòa bình và thịnh vượng lâu dài cho tất cả các nước, trong khu vực năng động này. Nhưng chính sách của Bắc Kinh tại Biển Đông lại hoàn toàn tương phản với sự cởi mở của chiến lược mà Mỹ muốn phát huy, đặt ra các câu hỏi về những mục tiêu lớn hơn của Trung Quốc. Trung Quốc đã quân sự hóa các đảo nhân tạo trên Biển Đông, kể cả triển khai các tên lửa chống hạm, tên lửa đất đối không, thiết bị điện tử gây nhiễu, và mới đây nhất là việc cho máy bay ném bom hạ cánh xuống đảo Phú Lâm. Mặc dù Bắc Kinh chối cãi, sự bố trí các hệ thống vũ khí này trực tiếp gắn với việc sử dụng trên phương diện quân sự, mà mục đích là hù dọa và bức hiếp. Việc quân sự hóa Biển Đông cũng trái ngược hẳn với những cam kết công khai của chủ tịch Tập Cận Bình, ngay tại Vườn Hồng ở Nhà Trắng vào năm 2015. Vì những lý do đó, Mỹ đã rút lại lời mời hải quân Trung Quốc tham gia cuộc tập trận RIMPAC 2018. Đó là câu trả lời bước đầu của chúng tôi trước tình trạng Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa Biển Đông”. Trong khi đó, Đại sứ Mỹ tại Philippines Sung Kim lớn tiếng bày tỏ lo ngại về “mọi hành động xác quyết nào hướng tới quân sự hóa”, đồng thời nhận định rằng Trung Quốc “đang hướng tới quân sự hóa các tranh chấp”. Mỹ cũng đã gia tăng áp lực lên Bắc Kinh trong lĩnh vực quân sự khi liệt nước này vào danh sách những đối thủ của Mỹ trong chiến lược an ninh quốc gia công bố hồi năm 2017.

Về cam kết không quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc

Trung Quốc đã nhiều lần đưa ra các cam kết không quân sự hóa ở Biển Đông. Phát biểu trong chuyến thăm Mỹ, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (9/2015) đã công khai cam kết Trung Quốc sẽ bảo vệ an ninh hàng hải qua Biển Đông và không quân sự hoá quần đảo Trường Sa. Trước đó, nhiều quan chức của Trung Quốc cũng cho rằng các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông là nhằm thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm với cộng đồng quốc tế và Trung Quốc không có các hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông, hay chạy đua vũ trang trong khu vực. Gần đây nhất, phát biểu tại Đối thoại Shangri-La, Trưởng đoàn của Trung Quốc, Trung tướng Hà Lôi, Phó Viện trưởng Viện hàn lâm Khoa học Quân sự Trung Quốc khẳng định phát biểu của Mỹ về việc Trung Quốc triển khai vũ khí tới Biển Đông là “thiếu trách nhiệm, những hành động của Trung Quốc chỉ nhằm mục đích phòng thủ quốc gia, tránh nguy cơ xâm lược từ các nước khác”.

Tuy nhiên, phát biểu bên lề Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (4/8) hùng hồn tuyên bố: “Một số nước ngoài khu vực, chủ yếu là Mỹ, đã đưa vũ khí chiến lược lớn đến khu vực, đặc biệt là ở Biển Đông, như là cách để phô bày sức mạnh quân sự và gây sức ép với các nước tại khu vực, bao gồm Trung Quốc. Tôi e rằng đây là động lực lớn nhất cho việc Trung Quốc thúc đẩy việc quân sự hóa tại khu vực”. Không những vậy, ông Vương Nghị còn ngang nhiên cho rằng “Trung Quốc hoàn toàn có quyền làm những việc đó vì Trung Quốc cần bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình. Và bởi vì ngày càng có nhiều áp lực với Trung Quốc, việc Trung Quốc tiến hành thêm nhiều biện pháp tự vệ là điều tự nhiên”. Đồng thời, ông Vương Nghị cũng không quên cáo buộc “các nước ngoài khu vực” cố tình gây rối tại Hội nghị Ngoại trưởng Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Hội nghị của ASEAN và 8 nước khác, bao gồm Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Nga, Hàn Quốc và Mỹ.

Trung Quốc ngang nhiên quân sự hóa ở Biển Đông (bất chấp cam kết trước đây của Tập Cận Bình) là nhằm ngăn chặn và đẩy Mỹ ra khỏi khu vực này, biến khu vực Biển Đông thành vùng chịu ảnh hưởng chi phối của Trung Quốc; đồng thời tìm cách gây áp lực với các nước cùng có tranh chấp ở Biển Đông, nhằm khiến các nước này nản chí, từ bỏ hy vọng có ngày giành lại được khu vực tranh chấp. Ngoài ra, việc thừa nhận quân sự hóa ở Biển Đông cũng phục vụ mục đích “răn đe” và đe dọa của Bắc Kinh, đặc biệt là trong bối cảnh các tranh chấp về quyền đánh cá và khai thác tài nguyên có thể nóng lên trong khu vực. Đặc biệt, trong bối cảnh Mỹ đánh thuế nặng đối với nhiều loại hàng hóa của Trung Quốc tác động mạnh mẽ đến tình hình xuất khẩu cũng như giá trị đồng tiền của nước này, từ đó ảnh hưởng lớn đến tình hình trong nước. Vì thế, Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động quân sự hóa Biển Đông là nhằm hướng sự chú ý của người dân sang một vấn đề khác.

Việc Trung Quốc tiến hành quân sự hóa ở Biển Đông không chỉ đi ngược lại cam kết của ông Tập Cận Bình mà còn vi phạm hiến chương Liên Hợp quốc; vi phạm Công ước luật biển; vi phạm tuyên bố ứng xử các bên trên biển Đông (DOC) mà Trung Quốc đã ký ASEAN (2002) ở PhnomPenh Campuchia. Về mặt đối ngoại họ đã đi ngược lại điều cam kết với các nước ASEAN là giữ nguyên hiện trạng trong quan hệ Việt Nam và thống nhất 6 nguyên tắc ứng xử giải quyết tranh chấp biển Đông. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam, Chủ tịch Tập Cận Bình cũng ký tuyên bố chung Việt – Trung, trong đó khẳng định lại hai bên cam kết đảm bảo hòa bình ổn định khu vực. Đặc biệt, trong cuộc họp báo quốc tế ở nhà trắng, Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố rằng Trung Quốc không quân sự hóa biển Đông. Tuy nhiên, trên thực tế Trung Quốc đã đi ngược lại với điều cam kết, ngược lại với quốc tế

Việc quân sự hóa cao độ của Trung Quốc tại các đảo được xây dựng trái phép trên Biển Đông đã làm dấy lên phản ứng mạnh trên toàn khu vực và xa hơn thế, đồng thời đặt ra nguy cơ xảy ra xung đột dữ dội, đặt toàn bộ các nước có tranh chấp khác trong đường ngắm của Trung Quốc. Quá trình quân sự hóa tăng cường tại các tiền đồn tôn tạo trái phép” của Trung Quốc sẽ “chỉ làm gia tăng căng thẳng và gây ra sự mất lòng tin giữa các nước có tranh chấp”.

Không những vậy, việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông khiến cộng đồng quốc tế hiểu rõ bản chất và bộ mặt thật của Trung Quốc. Điều này không chỉ khiến Trung Quốc đã tự cô lập họ trong khu vực, đặc biệt trong mối quan hệ với các nước ASEAN mà còn khiến uy tín, danh dự quốc gia của Trung Quốc bị tụt giảm nghiêm trọng.

Trung Quốc tìm mọi cách biện minh cho hành động quân sự hóa của mình

Tờ Nhân Dân Nhật Báo của Trung Quốc (17/1/2018) cho rằng Bắc Kinh triển khai vũ khí, khí tài tới Biển Đông nhằm “bảo vệ hòa bình ở Biển Đông”, đồng thời chỉ trích Mỹ và các nước liên quan liên tục có các hành vi “khiêu khích” trong khu vực, “đe dọa an ninh và chủ quyền” của Trung Quốc. Người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc (10/4/2018) cũng tuyên bố Trung Quốc có “quyền đương nhiên của một quốc gia có chủ quyền” trong việc triển khai lực lượng và vũ khí đến các căn cứ ở quần đảo Trường Sa. Đáng chú ý, phát biểu bên lề Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (4/8/2018) hùng hồn tuyên bố: “Một số nước ngoài khu vực, chủ yếu là Mỹ, đã đưa vũ khí chiến lược lớn đến khu vực, đặc biệt là ở Biển Đông, như là cách để phô bày sức mạnh quân sự và gây sức ép với các nước tại khu vực, bao gồm Trung Quốc. Tôi e rằng đây là động lực lớn nhất cho việc Trung Quốc thúc đẩy việc quân sự hóa tại khu vực”. Không những vậy, ông Vương Nghị còn ngang nhiên cho rằng “Trung Quốc hoàn toàn có quyền làm những việc đó vì Trung Quốc cần bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình. Và bởi vì ngày càng có nhiều áp lực với Trung Quốc, việc Trung Quốc tiến hành thêm nhiều biện pháp tự vệ là điều tự nhiên”.

Tác động, ảnh hưởng đối với khu vực:

Việc Trung Quốc tiến hành quân sự hóa ở Biển Đông không chỉ đi ngược lại cam kết của ông Tập Cận Bình mà còn vi phạm hiến chương Liên Hợp quốc; vi phạm Công ước luật biển; vi phạm tuyên bố ứng xử các bên trên biển Đông (DOC) mà Trung Quốc đã ký ASEAN (2002) ở PhnomPenh Campuchia. Về mặt đối ngoại họ đã đi ngược lại điều cam kết với các nước ASEAN là giữ nguyên hiện trạng trong quan hệ Việt Nam và thống nhất 6 nguyên tắc ứng xử giải quyết tranh chấp biển Đông. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam, Chủ tịch Tập Cận Bình cũng ký tuyên bố chung Việt – Trung, trong đó khẳng định lại hai bên cam kết đảm bảo hòa bình ổn định khu vực. Đặc biệt, trong cuộc họp báo quốc tế ở nhà trắng, Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố rằng Trung Quốc không quân sự hóa biển Đông. Tuy nhiên, trên thực tế Trung Quốc đã đi ngược lại với điều cam kết, ngược lại với quốc tế

Việc quân sự hóa cao độ của Trung Quốc tại các đảo được xây dựng trái phép trên Biển Đông đã làm dấy lên phản ứng mạnh trên toàn khu vực và xa hơn thế, đồng thời đặt ra nguy cơ xảy ra xung đột dữ dội, đặt toàn bộ các nước có tranh chấp khác trong đường ngắm của Trung Quốc. Quá trình quân sự hóa tăng cường tại các tiền đồn tôn tạo trái phép” của Trung Quốc sẽ “chỉ làm gia tăng căng thẳng và gây ra sự mất lòng tin giữa các nước có tranh chấp”.

Không những vậy, việc Trung Quốc thừa nhận quân sự hóa Biển Đông khiến cộng đồng quốc tế hiểu rõ bản chất và bộ mặt thật của Trung Quốc. Điều này không chỉ khiế Trung Quốc đã tự cô lập họ trong khu vực, đặc biệt trong mối quan hệ với các nước ASEAN mà còn khiến uy tín, danh dự quốc gia của Trung Quốc bị tụt giảm nghiêm trọng.

Phản ứng của cộng đồng quốc tế:

Bộ Quốc phòng Mỹ đã lên tiếng chỉ trích “hoạt động quân sự hóa liên tiếp của Trung Quốc tại các thực thể đang tranh chấp” ở Biển Đông. Trong các cuộc tranh luận mới đây, họ nhấn mạnh cam kết “một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và mở cửa”. Một quan chức cấp cao Bộ Quốc phòng Mỹ trả lời phỏng vấn CNBC cho biết việc Trung Quốc triển khai các hệ thống phòng thủ tên lửa tới Biển Đông cho thấy “quá trình quân sự hóa tăng cường tại các tiền đồn tôn tạo trái phép” của Trung Quốc sẽ “chỉ làm gia tăng căng thẳng và gây ra sự mất lòng tin giữa các nước có tranh chấp”. Thư ký báo chí của Nhà Trắng Sarah Sanders cho biết chính quyền Tổng thống Trump đã “bày tỏ lo ngại” với Trung Quốc, cảnh báo nước này về “các hậu quả nhãn tiền và trong dài hạn” nếu không thay đổi cách hành xử của mình. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis cũng cho biết Mỹ sẽ tiếp tục đối đầu với hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc tại Biển Đông, đồng thời khẳng định Bắc Kinh đã không giữ lời khi cam kết không đưa vũ khí ra quần đảo Trường Sa. Cùng quan điểm trên, Đô đốc Philip Davidson, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Hải quân Mỹ cho biết việc Trung Quốc quân sự hóa các tranh chấp “đặt ra thách thức không nhỏ cho các hoạt động quân sự của Mỹ trong khu vực”, đồng thời cảnh báo: “Hiện chỉ thiếu việc triển khai các lực lượng. Một khi chiếm đóng xong, Trung Quốc sẽ có khả năng mở rộng tầm ảnh hưởng ra hàng ngàn hải lý xuống phía Nam và phô trương lực lượng đến tận sâu trong Đại Tây Dương. Nói ngắn gọn là Trung Quốc hiện có khả năng kiểm soát Biển Đông trong mọi kịch bản chiến tranh với Mỹ”. Để đáp trả hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đã hủy lời mời Hải quân Trung Quốc tham gia cuộc tập trận đa phương Vành đai Thái Bình Dương. Trong khi đó, Ngoại trưởng Mỹ Mike cho biết hoat động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông gây nguy hiểm cho tự do thương mại, đe dọa chủ quyền của các nước khác và làm suy yếu sự ổn định của khu vực.

Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cũng bày tỏ lo ngại Trung Quốc quân sự hóa và mở rộng xây dựng ở Biển Đông, đồng thời yêu cầu Trung Quốc phải thực hiện đúng phát ngôn của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Hội nghị thượng đỉnh Mỹ – Nhật – Trung (9/2017), rằng Trung Quốc sẽ không quân sự hóa tại Biển Đông.

Ngoại trưởng Australia Julie Bishop (5/2018) thể hiện quan ngại đối với việc những hành vi quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc rõ ràng có trách nhiệm với tư cách là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, tức phải bảo đảm hòa bình và an ninh trên thế giới, đồng thời nhấn mạnh bất kỳ hành động đơn phương nào nhằm quân sự hóa các đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông đều đi ngược lại trách nhiệm đó.

Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad (13/8) tuyên bố, Trung Quốc cần tôn trọng quyền tự do đi lại trên Biển Đông của tàu bè tất cả các nước và Trung Quốc chớ nên gây căng thẳng không cần thiết ở vùng biển này.

Tương tự, Bộ trưởng Quốc phòng Singapore Hoàng Vĩnh Hoành (Ng Eng Hen) cho rằng việc Bắc Kinh quân sự hóa Biển Đông là mối quan ngại hàng đầu ở khu vực.

Trong khi đó, giới chuyên gia, học giả quốc tế cũng đưa ra nhiều nhận định liên quan hoạt động quân sự hóa phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo chuyên gia Richard Javad Heydarian, giáo sư về các vấn đề quốc tế và khoa học chính trị tại Đại học De La Salle, việc Trung Quốc triển khai máy bay ném bom có khả năng tấn công hạt nhân, cùng nhiều tên lửa và các thiết bị phá sóng radar đã làm thay đổi căn bản các toan tính chiến lược trong khu vực Biển Đông. Tiến sĩ Constantinos Yiallourides, Nghiên cứu viên tại Viện Luật quốc tế và So sánh Anh (BIICL) cho rằng, dù Trung Quốc đã nhiều lần cam đoan rằng “sẽ không sử dụng vũ lực” để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ nhưng các hoạt động cải tạo và xây dựng quân sự không ngừng tại các vùng lãnh thổ tranh chấp nhằm tạo ra một “sự đã rồi” và ép buộc các bên tranh chấp khác chấp nhận nguyên trạng mới này. Những hành động của Trung Quốc được xem là một sự mở rộng lãnh thổ bất hợp pháp thông qua vũ lực, trái với luật pháp quốc tế. Bằng cách quân sự hóa các cấu trúc tranh chấp, Trung Quốc muốn cho các “đối thủ” của mình thấy rằng họ chỉ có hai lựa chọn, một là chấp nhận nguyên trạng mới và hai là “đối mặt với một cuộc chiến tranh tốn kém với một cường quốc lớn trong khu vực”.

Báo chí, truyền thông và giới chuyên gia các nước cũng đưa ra nhiều bình luận, nhận định nhiều về hoạt động tập trận liên tục của Trung Quốc ở Biển Đông, cho rằng sự hiện diện và các hoạt động quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ làm gia tăng tình trạng căng thẳng và các nguy cơ xảy ra sự cố trên biển; gây phức tạp thêm tình hình, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường an ninh, hòa bình, hợp tác trong khu vực; gây tổn hại đến các quy chuẩn của luật pháp quốc tế và những nỗ lực thúc đẩy hợp tác, giải quyết hòa bình các tranh chấp của các nước; đe dọa nghiêm trọng đến an toàn của hoạt động hàng hải, hàng không của khu vực và quốc tế, cũng như hoạt động đánh bắt cá của ngư dân các nước.

Nhìn chung, hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông không chỉ vi phạm luật pháp quốc tế (vi phạm hiến chương Liên Hợp quốc; vi phạm Công ước luật biển; vi phạm DOC) mà còn đã đi ngược lại cam kết với các nước ASEAN về việc giữ nguyên hiện trạng ở Biển Đông và đi ngược lại các cam kết song phương giữa Trung Quốc với các nước liên quan, khiến tình hình khu vực ngày càng trở nên căng thẳng.

RELATED ARTICLES

Tin mới