Thursday, March 28, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaCách thức để Mỹ đẩy lùi TQ ở Biển Đông

Cách thức để Mỹ đẩy lùi TQ ở Biển Đông

Biendong.net xin giới thiệu bài viết của Gregory Poling, Giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) và Bonnie S. Glaser, Cố vấn Chương trình Châu Á, Giám đốc Dự án Sức mạnh Trung Quốc của CSIS.

Tàu hải quân Trung Quốc trong một cuộc tập trận.

Trong thời gian hai năm tại nhiệm, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã lớn tiếng coi thường hầu hết mọi hình thức của chủ nghĩa đa phương. Tuy nhiên, khi đề cập đến hai vấn đề hàng hải cấp bách ở Đông Á, chính quyền của ông đã nhận thấy giá trị của bằng hữu. Trước tiên là vấn đề ngăn chặn các hoạt động vận chuyển trái phép nhiên liệu sang các tàu chở dầu của Triều Tiên ở biển Hoa Đông, một chiến thuật được Bình Nhưỡng sử dụng để né tránh các biện pháp trừng phạt của Mỹ và Liên hợp quốc. Để ngăn chặn hoạt động vận chuyển trái phép này, Mỹ và Nhật Bản đã tập hợp một liên minh các nước nhằm nhận diện và tố giác các tàu có dính líu tới hoạt động vận chuyển trái phép này.

Vấn đề tiếp theo là Biển Đông, nơi Bắc Kinh tiếp tục tăng cường quân sự và gia tăng các yêu sách công khai phản đối luật pháp quốc tế. Hải quân các nước trong và ngoài khu vực đã phản ứng trước thái độ hung hăng của Trung Quốc bằng cách tiến hành thêm nhiều hoạt động, trong đó có việc tập trận, thu thập tin tức tình báo và đi qua các vùng biển tranh chấp, nhằm mục đích duy trì quyền tự do hàng hải và hàng không, một diễn biến được các quan chức Mỹ tán thưởng.

Không may là vai trò lãnh đạo của Mỹ chỉ được thể hiện rõ ở một trong những vấn đề hàng hải này. Washington là động lực thúc đẩy đằng sau nỗ lực đa phương nhằm ngăn chặn hoạt động vận chuyển trái phép của Triều Tiên. Nhưng nước này lại hoạt động kém hiệu quả hơn nhiều trong việc phối hợp với các nước có cùng tư tưởng nhằm bảo vệ quyền tự do hàng hải ở Biển Đông. Việc đẩy lùi chủ nghĩa xét lại của Trung Quốc sẽ đòi hỏi phải có một nỗ lực quốc tế mà Washington đóng vai trò trung tâm định hình. Trong khi đang tìm cách thức tốt nhất để làm việc này, Washington có thể áp dụng phương pháp của chính họ đã thực hiện ở biển Hoa Đông.

Một liên minh thành công

Tháng 10/2017, Mỹ bắt đầu các chuyến bay do thám trên biển Hoa Đông nhằm giám sát và làm gián đoạn hoạt động của các tàu bị nghi là vi phạm các lệnh trừng phạt đối với Triều Tiên. Đầu năm 2018, Chính quyền Trump quyết định mở rộng nỗ lực đó bằng cách lôi kéo thêm các nước vào việc theo dõi các tàu được cho là đang vận chuyển hàng cấm. Tháng 2/2018, tờ Asahi Shimbun của Nhật Bản đưa tin rằng Mỹ và Nhật Bản đã lên kế hoạch tổ chức một hội nghị quốc tế để thành lập liên minh này. Theo thông tin, các bên được mời bao gồm Australia, Pháp, Singapore, Hàn Quốc và Anh.

Từ tháng 5/2018, Australia, Canada, New Zealand và Anh đã bố trí các máy bay do thám tại Căn cứ không quân Kadena của quân đội Mỹ tại Okinawa để tiến hành các cuộc tuần tra thường xuyên trên biển Hoa Đông và biển Nhật Bản. Một tàu chiến của Anh cũng đã được triển khai tới Nhật Bản để trợ giúp nỗ lực này. Máy bay do thám thu thập thông tin về các con tàu bị nghi là vi phạm các lệnh trừng phạt đối với Triều Tiên. Những máy bay này chụp ảnh số hiệu của các con tàu tham gia vận chuyển dầu trái phép và báo cáo lên Liên hợp quốc để buộc các bên đó phải giải trình bằng việc ghi vào danh sách đen các con tàu và công ty có dính líu và gây sức ép buộc các nước thành viên, đặc biệt là Trung Quốc và Nga, phải thẳng tay trừng phạt các đối tượng vi phạm.

Liên minh này đã mở rộng vào tháng 9/2018 với việc thành lập Trung tâm điều phối thực thi trên tàu USS Blue Ridge. Con tàu này là nơi làm việc của hơn 50 nhân viên đến từ Australia, Canada, Pháp, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc và Anh. Ngoài các mục đích khác, nghe nói trung tâm điều phối này được thành lập nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thông tin liên lạc thông qua các đài chỉ huy giữa các tàu thuộc liên minh và các tàu vận chuyển trái phép bị tình nghi. Tháng 11/2018, Đô đốc Phil Davidson, Tư lệnh Bộ chỉ huy Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cho biết, Washington đã dành riêng hai tàu cho các hoạt động tuần tra này và tăng cường 50% các chuyến bay do thám của họ.

Cho đến nay, những nỗ lực của liên minh này đã mang lại nhiều kết quả khác nhau. Trong cuộc phỏng vấn với đài NBC vào tháng 12/2018, một quan chức thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ cho hay kể từ tháng 10/2017, các tàu vận chuyển trái phép đã 30 lần từ bỏ các chuyến vận chuyển giữa các tàu khi bị các đội tuần tra theo dõi. Không may, nhóm này cũng bị phản bác là đã trở thành nạn nhân của thành công của chính họ. Một báo cáo của Liên hợp quốc từ tháng 8/2018 cho thấy hoạt động vận chuyển trái phép đã chuyển từ biển Hoa Đông và biển Nhật Bản sang các vùng biển thuộc các nước xung quanh như Trung Quốc nhằm tránh bị phát hiện. Kết quả là, hoạt động vận chuyển giữa các tàu đang gia tăng.

Hiệu quả của liên minh này trong việc ngăn chặn những hành động vi phạm các lệnh trừng phạt đối với Triều Tiên trong dài hạn vẫn cần phải xem xét, nhưng không thể phủ nhận rằng nỗ lực đa phương đầy tham vọng này đã thành công trong việc gây áp lực đối với các đối tượng vi phạm các lệnh trừng phạt và các nước thành viên Liên hợp quốc đã và đang nhắm mắt làm ngơ trước các hoạt động của họ.

Đối phó với Bắc Kinh

Nếu mục đích của liên minh thẳng tay đàn áp hoạt động vận chuyển trái phép ở biển Hoa Đông phần lớn do Washington dàn dựng, thì sự tham gia ngày càng tăng của các bên thứ ba vào các hoạt động ở Biển Đông nhằm đối phó với Bắc Kinh có tính tổ chức hơn. Trong vài năm qua, Mỹ đã âm thầm thúc giục các nước có cùng tư tưởng gia tăng sự hiện diện của họ ở Biển Đông nhằm giúp khẳng định quyền tự do hàng hải của họ bất chấp các yêu sách biển quá mức của Trung Quốc. Nhưng Washington vẫn chưa tìm cách xây dựng một liên minh chính thức phục vụ những mục đích đó, khiến các nước khác phải khẳng định quyền lợi của họ một cách riêng rẽ.

Sự thúc giục của Mỹ có thể đã đóng một vai trò nào đó trong các hoạt động quân sự được tăng cường của các nước khác ở Biển Đông trong năm 2019. Nhưng việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo của họ ở quần đảo Trường Sa, đặc biệt là việc nước này triển khai các tên lửa hành trình đất đối không và tên lửa hành trình chống hạm đến những đảo này vào tháng 5/2018, có khả năng đóng một vai trò lớn hơn nhiều. Những diễn biến này làm gia tăng lo ngại rằng Bắc Kinh đang thắt chặt sự kiểm soát của họ đối với hải phận và không phận trên Biển Đông, điều có thể làm xói mòn các nguyên tắc pháp lý then chốt làm nền tảng cho trật tự hàng hải toàn cầu, ngăn chặn các đối tác Đông Nam Á tiếp cận các quyền lợi và nguồn lực của họ, và cuối cùng là gây bất ổn và xung đột tiềm tàng trong khu vực. Điều này đến lượt nó thúc đẩy các nước khác khẳng định quyền lợi của riêng họ và gửi đi một thông điệp rằng Mỹ không phải là nước duy nhất quan tâm đến việc duy trì quyền tự do hàng hải.

Năm 2018, Australia tăng tần suất các cuộc tuần tra đã có từ lâu của họ ở Biển Đông. Tư lệnh Hải quân Hoàng gia Australia Phó Đô đốc Michael Noonan đã phát biểu trước khán giả tại Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế hôm 28/11/2018 rằng lực lượng hải quân “thường xuyên cho tàu đi qua quần đảo Trường Sa và eo biển Đài Loan”. Ông cũng cho hay mặc dù việc cho tàu hoạt động trong phạm vi 12 hải lý tính từ các cấu trúc tranh chấp ở Biển Đông, như Mỹ thường xuyên làm thông qua các hoạt động tự do hàng hải, không phải là chính sách của Australia, nhưng họ ủng hộ quyền làm vậy của các nước khác.

Mỹ thực hiện các hoạt động tự do hàng hải trên toàn thế giới nhằm thách thức các yêu sách biển quá mức hoặc khẳng định việc nước này không tuân theo những hạn chế mà các nước khác đặt ra đối với các quyền lợi trên biển được quốc tế bảo đảm. Các tàu của Mỹ tiến hành một loạt hoạt động như vậy ở Biển Đông, bao gồm cả những hoạt động trong phạm vi 12 hải lý tính từ các cấu trúc địa hình bị chiếm đóng. Trong một số trường hợp, các hoạt động này nhằm khẳng định rằng Mỹ không công nhận sự tồn tại của một lãnh hải rộng 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo nằm dưới mực nước biển khi thủy triều dâng; trong các trường hợp khác, những hoạt động này thách thức đòi hỏi của Bắc Kinh về việc phải có thông báo trước khi tàu chiến nước ngoài có thể đi qua lãnh hải này.

Tháng 6/2018, một nhóm đặc nhiệm trên biển của Pháp đã phối hợp với trực thăng và tàu của Anh đi qua Biển Đông. Họ không đi vào lãnh hải 12 hải lý xung quanh các cấu trúc tranh chấp hay nhắm mục tiêu vào bất cứ yêu sách chủ quyền cụ thể nào của Trung Quốc, nhưng cũng như các hoạt động tuần tra của Australia, sự hiện diện của họ nhằm gửi đi một thông điệp. Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Florence Parly tiết lộ tại Đối thoại Shangri-La năm 2018 rằng các nhà quan sát Đức cũng có mặt trên một trong những con tàu này. Hai tháng sau đó, Anh đã tiến một bước xa hơn khi tàu HMS Albion đi qua quần đảo Hoàng Sa nhằm thách thức yêu sách bất hợp pháp của Trung Quốc về các đường cơ sở thẳng xung quanh các cấu trúc đó. Bằng việc vạch ra các đường cơ sở thẳng vi phạm các nguyên tắc pháp lý quốc tế, Bắc Kinh tuyên bố rằng vùng biển bên trong các đường cơ sở thẳng đó là khu vực nội thủy của họ và là vùng cấm đối với tàu thuyền nước ngoài. Chuyến đi của tàu HMS Albion, vốn thách thức tuyên bố đó, là bằng chứng cho thấy lần đầu tiên hải quân của một nước không phải là Mỹ công khai tham gia một hoạt động tự do hàng hải rõ ràng.

Ngày 31/8/2018, ngày con tàu HMS Albion thực hiện chuyến đi này, Hải quân Mỹ và Lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản đã tham gia một cuộc tập trận huấn luyện song phương ở Biển Đông. Sau đó vào tháng 9/2018, Nhật Bản đã cử một tàu ngầm cùng 3 tàu khu trục của họ tham gia một cuộc tập trận chống tàu ngầm ở Biển Đông. Điều này đánh dấu lần đầu tiên Nhật Bản công khai thừa nhận một cuộc tập trận của tàu ngầm ở vùng biển này.

Sự gia tăng trong hoạt động hải quân này cho thấy mối quan ngại về các nỗ lực của Trung Quốc nhằm viết lại các quy tắc trong thông lệ quốc tế ở Biển Đông đang lan rộng. Không một nước nào khác có thứ gì tương đương với Chương trình tự do hàng hải của Mỹ, nhưng tất cả các lực lượng hải quân nước ngoài hoạt động ở Biển Đông đều đang khẳng định quyền tự do hàng hải thông qua những cuộc tập trận như vậy, dù đó không phải là mục đích duy nhất của họ. Xét cho cùng, Trung Quốc phản đối bất kỳ hoạt động quân sự nước ngoài nào mà không có thông báo ở vùng biển nước này yêu sách chủ quyền, và các lực lượng Trung Quốc thường xuyên đưa ra các cảnh báo buộc các tàu và máy bay quân sự nước ngoài phải rời khỏi các “vùng cảnh báo quân sự” không được định rõ hoặc ngừng “đe dọa an ninh” các cơ sở của Trung Quốc chỉ bằng việc quá cảnh ở không phận quốc tế và các vùng biển lân cận.

Đã đến lúc lãnh đạo

Sự xuất hiện của thái độ sốt sắng mới có này trên phạm vi quốc tế trong việc khẳng định quyền lợi ở Biển Đông mang lại cơ hội thể hiện vai trò lãnh đạo, nhưng là một cơ hội mà Mỹ vẫn chưa nắm bắt. Các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đe dọa một loạt rộng rãi các quyền tự do trên biển, chứ không chỉ là quyền tự do hàng hải của tàu quân sự nước ngoài. Trong đó có đặc quyền của các nước ven biển ở Đông Nam Á trong việc đánh bắt cá, khai thác các nguồn tài nguyên ở thềm lục địa, và thực hiện hoạt động thực thi pháp luật và các quyền tài phán khác trong vùng biển của riêng họ. Các hoạt động tự do hàng hải, cho dù được một liên minh gồm nhiều nước khác nhau thực hiện, cũng không đủ để bảo vệ luật pháp quốc tế và đẩy lùi chủ nghĩa xét lại của Trung Quốc.

Để bắt đầu làm vậy, Mỹ nên thực hiện vai trò lãnh đạo đa phương giống như họ đã làm ở biển Hoa Đông và tính đến các bên có cùng tư tưởng như Australia, Pháp, Nhật Bản và Anh trong các cuộc tập trận chung và các hoạt động xây dựng liên minh khác với các đối tác Đông Nam Á, đặc biệt là Philippines và Việt Nam. Điều này sẽ gửi đi một tín hiệu rõ ràng rằng những nước này, giống như Mỹ, quan tâm đến việc bảo vệ không chỉ quyền tự do hàng hải của chính họ mà cả quyền lợi của các bên có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Sự hợp tác như vậy cuối cùng có thể dẫn tới việc thành lập một lực lượng đặc nhiệm phối hợp có căn cứ đặt tại một trong những nước Đông Nam Á nhằm giúp ngăn chặn hơn nữa hành động hay các tuyên bố chủ quyền mới của Trung Quốc ở Biển Đông.

Về ngoại giao, Mỹ nên thuyết phục những nước này và các nước khác như Canada và các đối tác châu Âu đưa vấn đề Biển Đông trở lại vị trí hàng đầu trong nghị trình quốc tế. Một điểm khởi đầu tốt đẹp là tính đến giọng điệu mạnh mẽ về vấn đề Biển Đông trong tuyên bố thường niên của các nhà lãnh đạo nhóm G-7 vượt ra ngoài việc bày tỏ đơn thuần mối quan ngại về quyền tự do hàng hải và sự ủng hộ đối với các tiến trình ngoại giao vốn là một phần trong Tuyên bố của các Bộ trưởng Ngoại giao nhóm G-7 hồi tháng 4/2018. Giọng điệu này nên làm rõ rằng các nước G-7 cam kết ủng hộ tất cả các hoạt động hợp pháp trên biển, trong đó có hoạt động thực hiện quyền của các nước Đông Nam Á đối với các nguồn tài nguyên trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của họ. Một nỗ lực ngoại giao phối hợp trên phạm vi quốc tế sẽ nâng cao nhận thức về sự o ép của Trung Quốc ở Biển Đông và khiến cho việc liên tục vi phạm quy tắc trở nên tốn kém hơn bằng việc làm xói mòn hình ảnh của Bắc Kinh với tư cách một nhà lãnh đạo toàn cầu có trách nhiệm và là đối tác hấp dẫn đối với các nước khác.

Một liên minh hiệu quả ở Biển Đông sẽ là thứ giúp bảo vệ các quyền lợi mà các nước Đông Nam Á nên được hưởng trong vùng biển của chính họ, đồng thời khiến Bắc Kinh phải đưa ra những nhượng bộ dài hạn với các nước láng giềng của họ hoặc phải trả một cái giá cắt cổ về ngoại giao và kinh tế. Nhưng để làm được điều đó, Washington cần đưa chính sự sáng tạo và tham vọng mà họ đã thể hiện ở biển Hoa Đông đến Biển Đông.

RELATED ARTICLES

Tin mới