Tuesday, March 19, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaTuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)...

Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) có còn hiệu quả trong bối cảnh hiện nay

DOC là một văn kiện được ASEAN và Trung Quốc ký kết ngày 4/11/2002, tại Phnom Penh (Campuchia) nhân dịp Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8. Đây là văn kiện chính trị đầu tiên và cũng là bước đột phá trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc về vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, DOC hiện không còn hiệu quả và nó cũng không giúp ngăn chặn, kiểm soát các hành vi phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông.

Quá trình ra đời của DOC

Từ những năm 1970 của thế kỷ 20, tranh chấp chủ quyền biển, đảo ở biển Đông trở nên căng thẳng hơn. Đặc biệt, cuối những năm 80, tình hình liên quan quần đảo Trường Sa xảy ra những sự kiện đột biến, phức tạp, đe dọa hòa bình và ổn định của khu vực. Trước tình hình đó, ngày 22/7/1992, ASEAN thông qua Tuyên bố về Biển Đông kêu gọi các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, kiềm chế không làm căng thẳng tình hình, khuyến nghị các bên liên quan áp dụng các nguyên tắc của Hiệp ước thân thiện và hợp tác tại Đông Nam Á (TAC) để làm cơ sở xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Diễn biến sau đó ở Biển Đông tiếp tục xấu đi, nên Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 29 (Jakarta, 20, 21/7/1996) ra Tuyên bố chung bày tỏ quan ngại trước những diễn biến trên Biển Đông và nhấn mạnh những diễn biến đó đòi hỏi có một Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông để duy trì ổn định trong khu vực và thúc đẩy sự hiểu biết giữa các quốc gia. Sau đó, ASEAN đẩy mạnh nỗ lực để xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 (16/12/1998), lãnh đạo các thành viên ASEAN nhất trí xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Tại cuộc họp tháng 5/1999, SOM ASEAN đã bắt đầu thảo luận các dự thảo do Philippines và Việt Nam chuẩn bị.

Trên cơ sở thương lượng, các nước ASEAN đã thống nhất Bản dự thảo chung của ASEAN và bản dự thảo này đã được trình lên Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và giới thiệu tại cuộc họp của ARF vào tháng 7/1999. Tháng 9/1999, ASEAN tiếp tục thảo luận trong đó một trong những vấn đề được các chuyên gia ASEAN đi sâu là phạm vi áp dụng của COC. Tháng 11/1999, ASEAN tiếp tục thảo luận và cuối cùng thống nhất dự thảo chung để đàm phán với Trung Quốc. Tháng 3/2000, lần đầu tiên ASEAN và Trung Quốc tiến hành thương lượng về dự thảo COC qua cuộc hội đàm không chính thức tại Hua Hin (Thái Lan). Cuộc họp SOM ASEAN-Trung Quốc lần thứ 6 (25-26/4/2000) tại Cuching (Malaysia), ASEAN và Trung Quốc thống nhất lập Nhóm nghiên cứu liên hợp nhằm soạn thảo COC. Phiên họp đầu tiên của Nhóm nghiên cứu (tổ chức tại Kualar Lumpur tháng 5/2000) cho thấy hai bên có ý kiến khác nhau về khu vực địa lý mà COC có hiệu lực và điều khoản về không chiếm đóng thêm. Sau đó, một mặt ASEAN tiếp tục có các cuộc họp nội bộ; mặt khác ASEAN và Trung Quốc có các cuộc thương thảo để tháo gỡ các bế tắc. ASEAN và Trung Quốc thương lượng về văn kiện trong 3 năm 2000-2002 và ngày 4/11/2002 tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 8 tại cùng nhau ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).

Các cam kết mà ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí trong DOC có thể phân thành hai nhóm chính, bao gồm các cam kết về các nguyên tắc ràng buộc hành vi ứng xử của các bên ở Biển Đông và các cam kết về việc cùng tiến hành một số biện pháp xây dựng lòng tin cũng như một số hoạt động hợp tác trong một số lĩnh vực ít nhạy cảm, cụ thể:

Các cam kết về các nguyên tắc ứng xử là trọng tâm chính của DOC và bao gồm các cam kết sau đây: Một là, các Bên khẳng định cam kết đối với mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, năm nguyên tắc tồn tại hòa bình và các nguyên tắc phổ cập khác của pháp luật quốc tế. Hai là, các Bên cam kết giải quyết mọi tranh chấp lãnh thổ và tranh chấp về quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thông qua trao đổi ý kiến và thương lượng hữu nghị giữa các quốc gia có chủ quyền liên quan phù hợp với các nguyên tắc phổ cập của pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982. Mặc dù DOC không nói rõ các biện pháp hoà bình ở đây là gì, nhưng căn cứ pháp luật quốc tế cũng như quy định tại Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc thì các biện pháp hoà bình để giải quyết tranh chấp bao gồm thương lượng, môi giới, trung gian, hoà giải, trọng tài và toà án quốc tế. Điều này có nghĩa là các bên có rất nhiều sự lựa chọn và họ hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn các biện pháp hoà bình này. Điều mấu chốt là họ không được đe doạ bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp liên quan ở Biển Đông. Ba là, các bên khẳng định tôn trọng tự do hàng hải và tự do bay ở Biển Đông như đã được quy định bởi các nguyên tắc phổ cập của pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982. Điều này có nghĩa là tàu thuyền của mọi quốc gia (bất kể ở trong khu vực hay ngoài khu vực) đều được quyền tự do hàng hải trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước ven Biển Đông cũng như vùng biển quốc tế ngoài phạm vi 200 hải lý; tàu bay của mọi quốc gia được quyền tự do bay trên vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven Biển Đông và ở vùng trời trên các vùng biển quốc tế. Bốn là, các bên cam kết kiềm chế không tiến hành các hoạt động có thể làm phức tạp thêm hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định. Tuyên bố DOC không liệt kê cụ thể những hành động cụ thể, nhưng chúng ta có thể xác định được: đó là các hoạt động có thể làm phức tạp thêm các tranh chấp hiện hành; đó là các hoạt động có thể gia tăng các tranh chấp hiện hành; và loại hành động thứ 3 là các hành động có thể ảnh hưởng đến hoà bình và ổn định ở trong khu vực. Tuyên bố đặc biệt nhấn mạnh việc kiềm chế không đưa người lên các đảo, bãi hiện nay không có người ở.

Nhóm các cam kết thứ 2 liên quan việc tìm kiếm phương cách xây dựng dựng lòng tin và các hoạt động hợp tác trong một số lĩnh vực ít nhạy cảm. ASEAN và Trung Quốc đồng ý căn cứ vào các nguyên tắc Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, năm nguyên tắc tồn tại hòa bình và các nguyên tắc phổ cập khác của pháp luật quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau để tìm kiếm các phương cách xây dựng lòng tin. Từ cam kết mang tính nguyên tắc đó, ASEAN và Trung Quốc nhất trí là trong khi tìm kiếm giải pháp hoà bình cho các tranh chấp, các bên cam kết tăng cường nỗ lực để xây dựng lòng tin như tiến hành đối thoại quốc phòng; đối xử nhân đạo với người bị nạn trên biển; thông báo cho các bên liên quan về các cuộc diễn tập quân sự, trao đổi thông tin liên quan. Việc thông báo và trao đổi như vậy được các bên liên quan tiến hành trên cơ sở tự nguyện. Đồng thời trong khi tìm kiếm giải pháp toàn diện và lâu dài cho vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, các bên có thể tìm kiếm và tiến hành các hoạt động hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an toàn và an ninh hàng hải, tìm kiếm, cứu nạn trên biển, đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia (buôn bán ma túy, cướp biển, cướp có vũ trang trên biển và buôn lậu vũ khí). Các bên sẽ thỏa thuận phương thức, địa điểm và phạm vi của các hoạt động hợp tác này trược khi triển khai.

ASEAN và Trung Quốc long trọng cam kết tôn trọng các quy định của DOC và hành động phù hợp với các nội dung của DOC. ASEAN và Trung Quốc đồng ý sẽ cùng nhau hợp tác trên cơ sở đồng thuận để đạt mục tiêu cuối cùng cao hơn là thông qua COC. Các bên đều nhất trí rằng việc thông qua Bộ Quy tắc đó sẽ tăng cường hơn nữa hoà bình và ổn định của khu vực. Đồng thời ASEAN và Trung Quốc cũng khuyến khích các quốc gia khác tôn trọng các nguyên tắc trong DOC.

DOC không còn phù hợp?

Giải quyết các tranh chấp về yêu sách chủ quyền lãnh thổ của một số quốc gia đối với Biển Đông là vô cùng quan trọng vì lợi ích của việc đảm bảo hòa bình và ổn định ở khu vực. DOC đóng vai trò là một điểm tham chiếu khi xuất hiện vấn đề căng thẳng và là cơ sở để đàm phán một COC chính thức. Việc phát triển một COC cho các bên ở Biển Đông là mục tiêu ban đầu của sự can dự của ASEAN với Trung Quốc về Biển Đông vào cuối những năm 1990, từ đó dẫn tới việc ký kết DOC vào năm 2002. Sau khi thế bế tắc kéo dài hàng thập kỷ liên quan tới việc hướng dẫn thực hiện DOC được khai thông vào năm 2011, các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc đã bắt tay vào các cuộc tham vấn chính thức về COC vào tháng 9/2013. Trong giai đoạn 2013-2016, các cuộc tham vấn chỉ tập trung vào việc tích lũy những điểm tương đồng và thảo luận về các vấn đề mang tính thủ tục. Bắt đầu từ giữa năm 2017, Trung Quốc đã đổi hướng và áp dụng cách tiếp cận hướng về phía trước nhiều hơn đối với COC. Điều này đã mở đường cho việc thông qua dự thảo khung COC vào tháng 8/2017 và Văn bản dự thảo đàm phán duy nhất vào tháng 6/2018. 

Trung Quốc và ASEAN đã triển khai hợp tác có hiệu quả cho hòa bình và ổn định của Biển Đông. Ngày 25/7/2016, Trung Quốc và ASEAN đã thông qua Tuyên bố chung về thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC, nêu rõ Trung Quốc và các nước ASEAN đều ý thức được bảo vệ hòa bình, ổn định ở Biển Đông và cam kết giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp theo luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, do các bên liên quan trực tiếp đến tranh chấp giải quyết vấn đề thông qua phương thức đàm phán; các bên giữ kiềm chế, không có hành động làm phức tạp hóa tranh chấp; các bên khẳng định lại tầm quan trọng của việc thiết lập COC và cam kết nhanh chóng đạt được COC trên cơ sở thực hiện DOC. Sau đó, Trung Quốc và ASEAN đã đẩy nhanh tiến độ đàm phán COC. Xem xét từ quá trình, COC mà Trung Quốc đàm phán với các nước ASEAN đã bắt đầu từ trước khi DOC được ký năm 2002. Ở góc độ nào đó, DOC là một nửa sản phẩm trong tiến trình đàm phán COC, trở thành nền tảng quan trọng để bảo vệ ổn định an ninh Biển Đông lâu dài, cũng là nội dung tham khảo then chốt để Trung Quốc và các nước ASEAN tăng cường đàm phán COC.

Nguyên nhân chủ yếu khiến DOC được Trung Quốc và đông đảo các nước ASEAN chấp nhận là trong tình hình khu vực và quốc tế hiện nay, việc đạt được một văn bản chính sách như vậy đã không còn dễ dàng, cơ bản đã đáp ứng đòi hỏi lợi ích của các nước có liên quan đến vấn đề Biển Đông. Xem xét từ bất kỳ góc độ nào, đàm phán ngoại giao luôn là một quá trình thỏa hiệp, mà văn bản cuối cùng phải có khả năng ràng buộc nhất định, nhưng sự ràng buộc này lại có thể gây ra sức ép chiến lược lớn hơn đối với các nước ASEAN. Do đó, đạt được sự thỏa thuận có ý nghĩa hơn DOC được coi là một sự lựa chọn sáng suốt.

Tuy nhiên, theo giới phân tích, DOC vẫn có hạn chế lớn, chủ yếu thể hiện ở nhấn mạnh các bên cam kết duy trì sự kiềm chế, không có hành động khiến tranh chấp phức tạp hơn, mở rộng hơn và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định, đồng thời, không có tính cưỡng chế cao về luật pháp quốc tế, đòi hỏi các bên phải kiên quyết thực hiện, không có không gian để mặc cả. Vì vậy, sau khi đạt được DOC, Trung Quốc và các nước ASEAN nhanh chóng khởi động tiến trình thúc đẩy đàm phán COC, hình thức chủ yếu là hội nghị quan chức của Bộ Ngoại giao các nước và hội nghị của những nhóm công tác chung.

Mới đây nhất, tại Hội nghị Quan chức cao cấp ASEAN – Trung Quốc lần thứ 17 về thực hiện DOC (17-18/5/2019), các bên trao đổi về tình hình Biển Đông, kiểm điểm việc thực hiện DOC và tiếp tục đàm phán về COC. Phát biểu tại hội nghị, Trưởng đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Quốc Dũng nêu rõ tiến triển đạt được trong thực hiện DOC và đàm phán COC, đồng thời chia sẻ quan ngại về những diễn biến phức tạp ở Biển Đông vốn có nguyên nhân từ cạnh tranh chiến lược các nước lớn, các hành động đơn phương trái với luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nhất là các hoạt động quân sự hóa, làm xói mòn lòng tin, cản trở việc duy trì hòa bình, ổn định, ảnh hưởng tới đàm phán COC. Việt Nam kêu gọi các nước đề cao tinh thần trách nhiệm, chung tay thực hiện đầy đủ DOC, kiềm chế và không có các hành động làm phức tạp tình hình, không quân sự hóa và đẩy mạnh hợp tác xử lý những thách thức đang đặt ra.

Tại hội nghị, nhiều nước nêu rõ tình hình Biển Đông phức tạp là hệ lụy của những diễn biến vừa qua trên thực địa, làm gia tăng căng thẳng, gây xói mòn lòng tin, tạo nguy cơ đối với hòa bình, ổn định trên Biển Đông. Các nước tái khẳng định tầm quan trọng của việc bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, đồng thời cam kết thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC, nhất là tự kiềm chế, đi đôi hợp tác xây dựng lòng tin.

RELATED ARTICLES

Tin mới