Tuesday, April 23, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaHội Luật quốc tế Việt Nam liên tục phản bác luận điệu...

Hội Luật quốc tế Việt Nam liên tục phản bác luận điệu TQ về Biển Đông

Trước các hành động phi pháp của Trung Quốc trong Vùng Đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam (VSIL) đã nhiều lần lên tiếng phản đối, phản bác luận điệu của Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông.

Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam (VSIL) Nguyễn Bá Sơn (29/10) lại gửi thư cho Hội Luật quốc tế phản đối hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời nêu rõ những sai phạm của Bắc Kinh trong vùng biển này. 

Theo đó, VSIL khẳng định nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc hoạt động từ đầu tháng 7 nằm hoàn toàn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, được xác định trên cơ sở Điều 57 và 76 của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS). Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam (VSIL) cho rằng khi phê chuẩn UNCLOS, Trung Quốc đã thể hiện sự chấp thuận của quốc gia đối với các nghĩa vụ pháp lý quốc tế được quy định trong Công ước, bao gồm việc chấp nhận thủ tục tài phán bắt buộc, công nhận và thực hiện Phán quyết mang tính chất chung thẩm và ràng buộc năm 2016 mà Toà Trọng tài đã tuyên. Với việc từ chối tham gia vụ kiện trọng tài Biển Đông với Philippines và tuyên bố không công nhận giá trị ràng buộc của Phán quyết của Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS, Trung Quốc đã vi phạm nguyên tắc chấp thuận mà quốc gia với tư cách là thành viên UNCLOS cần tuân thủ.

Theo VSIL, Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông đã đưa ra kết luận “không có bất kỳ thực thể luôn nổi nào tại khu vực quần đảo Trường Sa đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 121 UNCLOS để có quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của riêng mình”. Điều này có nghĩa các thực thể luôn nổi thuộc quần đảo này chỉ có thể có tối đa lãnh hải 12 hải lý. Các thực thể giữa biển, nằm dưới mặt nước biển khi thủy triều lên không phải là đảo, không có vùng biển xung quanh. Toà Trọng tài cũng đưa ra kết luận “không một quốc gia nào có quyền yêu sách vẽ đường cơ sở quần đảo bao quanh quần đảo Trường Sa và xem quần đảo Trường Sa là một thực thể đơn nhất có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng, vì nhóm đảo này không đáp ứng các điều kiện để có đường cơ sở quần đảo theo quy định tại Điều 47 của UNCLOS hoặc đường cơ sở thẳng theo quy định tại Điều 7 của Công ước”. Khu vực mà Trung Quốc gọi là “bãi Vạn An” hoàn toàn chìm dưới mặt nước biển, thuộc thềm lục địa Việt Nam và không liên quan gì đến quần đảo Trường Sa, nơi các thực thể không có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế như Tòa Trọng tài đã phán xử. 

Chủ tịch VSIL khẳng định việc tồn tại tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa không thể dẫn đến việc phát sinh bất kỳ sự chồng lấn nào giữa vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được tính từ bờ biển lục địa của Việt Nam, với lãnh hải của bất kỳ thực thể luôn nổi nào thuộc quần đảo Trường Sa. Chủ tịch VSIL tái khẳng định khu vực Nam Biển Đông của Việt Nam, nơi Trung Quốc điều tàu Địa chất Hải Dương 8 đến hoạt động từ đầu tháng 7, là khu vực không thuộc Trường Sa, cả về địa lý và pháp lý, nên không liên quan gì đến “chủ quyền ở Trường Sa”. 

Chủ tịch VSIL cũng bác bỏ lý lẽ của Trung Quốc rằng Việt Nam “từng bước chiếm đóng phi pháp một số đảo và bãi ngầm thuộc Trường Sa” từ những năm 1970 và “đó là nguyên nhân gây ra tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước”; khẳng định Việt Nam đã thực thi chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 17. Chúa Nguyễn đã cử các đội Hoàng Sa – Bắc Hải ra khai thác ở hai quần đảo này. Các hoàng đế nhà Nguyễn cũng cử các đội hải quân ra về bản đồ, cắm cột mốc chủ quyền trên hai quần đảo. Trong giai đoạn chủ nghĩa thực dân thống trị, nước Pháp thay mặt Việt Nam quản lý Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam Cộng hòa tiếp quản và quản lý hai quần đảo này từ nước Pháp theo quy định của Hiệp định Geneva năm 1954. Việc tiếp quản quần đảo Trường Sa năm 1975 và những hoạt động bình thường của Việt Nam trong khu vực quần đảo Trường Sa sau khi đất nước đã hòa bình, thống nhất là hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế và không có một quốc gia nào phản đối, kể cả Trung Quốc. Chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa được nhiều luật gia, sử gia quốc tế phân tích và công nhận. Một trong số đó là cuốn sách “Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands” của giáo sư luật quốc tế người Pháp Monique Chemillier-Gendreau xuất bản lần đầu bằng tiếng Pháp năm 1986 (bản dịch tiếng Anh năm 2000). Do đó, sự quản lý của Việt Nam sao có thể nói là phi pháp được.

Chủ tịch VSIL cũng lên án Trung Quốc dùng vũ lực vào năm 1974 và 1988 chiếm một số đảo và thực thể ở Hoàng Sa và Trường Sa, là hành động bị luật quốc tế nghiêm cấm. Việc Trung Quốc từng bước xây các đảo nhân tạo và quân sự hoá bất hợp pháp một số đảo đá và bãi cạn thuộc khu vực quần đảo Trường Sa chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình căng thẳng, đe dọa hoà bình và ổn định tại Biển Đông và trong khu vực. Chủ tịch VSIL cho rằng các trao đổi khoa học sẽ góp phần giúp người dân Việt Nam và Trung Quốc, cùng cộng đồng quốc tế có cái nhìn toàn diện và chính xác về nguyên nhân và giải pháp cho tình hình căng thẳng hiện nay ở Biển Đông. 

Trước đó, Chủ tịch VSIL (24/8) đã gửi thư ngỏ tới Chủ tịch Hội Luật quốc tế Trung Quốc nhấn mạnh cơ sở pháp lý bác bỏ các luận điểm sai trái của Trung Quốc về Biển Đông, đồng thời lên án hành động phi pháp của Trung Quốc trong vùng biển của Việt Nam. Chủ tịch VSIL nêu rõ, những hoạt động gần đây của tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và đi ngược lại thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân Việt Nam và Trung Quốc. Ông Nguyễn Bá Sơn nhấn mạnh khu vực mà tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 đang hoạt động nằm hoàn toàn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, được xác định trên cơ sở Điều 57 và Điều 76 của UNCLOS; khẳng định vùng biển này không phải khu vực chồng lấn hoặc có tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Theo quy định của UNCLOS, quyền của quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa có tính đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển không thăm dò hay khai thác tài nguyên ở các vùng này thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động này nếu không được phép của quốc gia ven biển. Mọi hoạt động thăm dò, khai thác, khảo sát, nghiên cứu đối với tài nguyên ở đó đều phải được sự chấp thuận rõ ràng của quốc gia ven biển.

Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Việt Nam cho biết một số chuyên gia luật quốc tế Trung Quốc thường viện dẫn “đường 9 đoạn” để biện minh cho yêu sách về “các quyền lịch sử” hay “một danh nghĩa lịch sử” của Trung Quốc tại các vùng biển nằm bên trong “đường 9 đoạn” này. Mặt khác, Trung Quốc cũng dựa vào UNCLOS để đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa mở rộng tính từ các quần đảo ở Biển Đông mà Trung Quốc là một trong các bên yêu sách chủ quyền. Với những viện dẫn nêu trên, Trung Quốc cho rằng khu vực biển mà tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 và các tàu khác của Trung Quốc đang hoạt động là vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn phi lý. Không có bất cử cơ sở pháp lý nào theo luật pháp quốc tế và UNCLOS cho “đường 9 đoạn”, Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới cũng chưa từng công nhận bất kỳ một hàm ý về phạm vi quyền đối với vùng biển được gán cho “đường 9 đoạn” này. Bên cạnh đó, cũng không thể coi vùng biển mà tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 đang hoạt động là vùng biển của quần đảo Trường Sa vì quần đảo Trường Sa không phải là một quốc gia quần đảo, do đó không đáp ứng tiêu chuẩn mà UNCLOS quy định để có thể vẽ đường cơ sở quần đảo bao quanh toàn bộ Trường Sa và từ đó yêu sách các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quần đảo. Ngoài ra, kể từ khi có Phán quyết Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS (7/12/2016) trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc thì những tranh luận trên đã được làm sáng tỏ. Phán quyết khẳng định rằng: (i) không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại vùng biển bên trong “đường 9 đoạn”; (ii) căn cứ vào tình trạng tự nhiên của các thực thể luôn nổi tại quần đảo Trường Sa, không thực thể nào có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thêm lục địa riêng; (iii) luật pháp quốc tế không cho phép Trung Quốc về đường cơ sở quần đảo bao quanh quần đảo Trường Sa và xem quần đảo Trường Sa là một thực thể đơn nhất có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng; (iv) các thực thể lúc chìm lúc nổi (và các thực thể ngầm) không phải là đối tượng yêu sách chủ quyền.

Chủ tịch VSIL còn cho biết, một số chuyên gia luật quốc tế của Trung Quốc sử dụng đoạn mở đầu của UNCLOS “khẳng định rằng, các vấn đề không quy định trong Công ước sẽ tiếp tục được xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế chung” để biện minh cho các lập luận về yếu tố lịch sử và yêu sách mập mờ nhằm tạo nên các vùng biển chồng lấn của Trung Quốc với các nước ven Biển Đông. Tuy nhiên, “các vấn đề về phạm vi và quy chế của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, đặc biệt là vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa cũng như vấn đề quốc gia quần đảo, đều là vấn đề được UNCLOS quy định rõ ràng, không phải là các vấn đề không được quy định”. Việt Nam và Trung Quốc đều là các quốc gia thành viên của UNCLOS, tự nguyện chấp nhận sự ràng buộc của Công ước, nên mọi cách giải thích, áp dụng trái với quy định của Công ước đều không có giá trị. Điều này củng đã được Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc xác nhận. Không những vậy, những hoạt động của tàu thuyền Trung Quốc ở vùng biển của Việt Nam vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và đi ngược lại những thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc. Chủ tịch VSIL khẳng định, tham gia Hội Luật quốc tế Việt Nam hay Hội Luật quốc tế Trung Quốc đều là những người dành cả đời cho việc nghiên cứu, phổ biến và thực hành luật quốc tế; nhấn mạnh “nhiệm vụ chung của chúng ta” là “bảo vệ công lý, bảo vệ trật tự pháp lý quốc tế, chống lại bất kỳ sự vi phạm nào đối với những nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế”. Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Việt Nam nhấn mạnh tất cả các thành viên của hội nguyện sẽ sử dụng tất cả những biện pháp được luật quốc tế quy định, đặc biệt là UNCLOS đề bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Tổ quốc mình và mong được cùng Hội Luật Quốc tế Trung Quốc trao đổi những vấn đề khoa học luật quốc tế với mục đích thượng tôn trật tự pháp lý quốc tế, góp phần vào việc gìn giữ hòa bình, ổn định trên Biên Đông, phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và Trung Quốc.

RELATED ARTICLES

Tin mới