Tuesday, April 16, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaXu hướng theo chủ nghĩa xét lại ở Biển Đông, nguyên nhân...

Xu hướng theo chủ nghĩa xét lại ở Biển Đông, nguyên nhân bất ổn gia tăng và giải pháp đối phó

Gần đây, trước bối cảnh trên bàn hội nghị, Trung Quốc và các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nỗ lực đàm phán hướng tới việc cho ra đời Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), nhưng trên thực địa lại diễn ra những cuộc “rượt đuổi” lẫn nhau giữa tàu thuyền của Trung Quốc với tàu thuyền của các nước trong khu vực như Việt Nam, Malaysia… báo chí trong khu vực Đông Nam Á đã có một số bài viết đưa ra đánh giá tổng quát về tình hình khu vực Biển Đông là: Vai trò và vị thế của Mỹ ở khu vực đang sa sút; trật tự dựa trên nguyên tắc đã được luật pháp quốc tế thừa nhận đang suy yếu do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ nghĩa xét lại và thái độ quyết đoán ngày càng tăng của Bắc Kinh là nguyên nhân chính. Cách thức này đang diễn ra ở Biển Đông có thể coi là một tiền lệ nguy hiểm cho các điểm nóng quân sự khác trên khắp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Đánh giá trên khiến giới nghiên cứu khu vực và nhiều người quan tâm buộc phải đặt ra câu hỏi là chủ nghĩa xét lại ở Biển Đông từ đâu mà ra và khu vực này nên làm gì để ứng phó với bất ổn ngày càng tăng do thứ chủ nghĩa này mang lại?

Chủ nghĩa xét lại vốn dĩ đã có từ lâu và đã từng hoành hành ở nhiều quốc gia, nhất là trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Nó gây ra không ít đau khổ, thiệt hại mà xét cho cùng là đổ lên đầu người dân ở những nước có giới tinh hoa chính trị dung dưỡng nó. Những tưởng nó đã bị người ta quẳng vào sọt rác lịch sử rồi. Thế mà, cớ sao sang đến những năm đầu của thế kỷ XXI mà thứ chủ nghĩa này lại hiện diện ở Biển Đông mới lạ. Lý giải cho vấn đề này, báo chí khu vực cho rằng có hai lý do: Một là, trong những năm qua, trên khắp Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, sự phụ thuộc ngày càng tăng về kinh tế đã cho phép quốc gia đang nổi lên trong khu vực là Trung Quốc bắt đầu xét lại bản chất của các mối quan hệ quốc tế và trật tự dựa trên nguyên tắc lấy sự tuân thủ luật pháp dựa trên hiệp ước quốc tế làm nền tảng. Đây xem như là lý do chủ quan. Hai là, việc Mỹ “phớt lờ” khu vực này do bị chi phối bởi cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, sau đó là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 đã tạo điều kiện cho sự dịch chuyển nhanh chóng cán cân quyền lực chính trị và sức mạnh quân sự của các nước khác tại khu vực này, nhất là Trung Quốc. Rõ ràng đây là lý do khách quan.

Cần phải nói thêm một chút về lý do chủ quan và khách quan trên. Về chủ quan, Trung Quốc là một nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, xét về mặt lý thuyết, đó phải là quốc gia có xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; có quan hệ đối ngoại bình đẳng với các nước; sự phát triển của Trung Quốc cũng là sự phát triển của các nước khác, chứ không phải vì lợi ích riêng của Trung Quốc. Nói như người Trung Quốc thường tuyên truyền là “Trung Quốc đi trên con đường hợp tác để cùng thắng”. Đáng tiếc, những điều tốt đẹp trên được thể hiện ở đâu đó, chứ nhìn vào những gì thể hiện qua các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông thì không ai thấy, nghĩa là bản chất đích thực về một chế độ xã hội chủ nghĩa trong quan hệ quốc tế mà nước này thường tuyên bố là “hữu hảo, cùng thắng” đã không còn đúng nguyên nghĩa của nó. Còn về lý do khách quan, chiến lược “tái cân bằng” sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ dưới thời cựu Tổng thống B.Obama đã bị “bắt bài” và trở nên vô dụng do Mỹ không kiên quyết trong việc kiềm chế Trung Quốc, mà ngược lại đã thi hành chính sách chủ nghĩa hòa bình với Bắc Kinh. Kết quả là, các chính sách theo chủ nghĩa xét lại trái với luật pháp quốc tế, sự hăm dọa đối với các nước khác trong khu vực của Trung Quốc ngày càng nổi lên.Trong khi đó, niềm tin của một số nước trong khu vực vào sức mạnh và chiếc ô an ninh của Mỹ ngày càng giảm sút, trật tự dựa trên nguyên tắc luật pháp quốc tế dần bị xói mòn, một môi trường hỗn loạn và quân phiệt hơn đang lấp vào chỗ trống ở khu vực.

Từ đó, không khó để giới nghiên cứu nhận ra hai biểu hiện nổi bật theo xu hướng của chủ nghĩa xét lại mà Trung Quốc đã thực thi ở Biển Đông:

Thứ nhất, dựa vào tốc độ phát triển kinh tế và tiềm lực quốc phòng, quân sự liên tục gia tăng, Bắc Kinh ngày càng thể hiện thái độ tự tin, quyết đoán hơn trên cả bình diện khu vực lẫn quốc tế.Thực tế cho thấy, trật tự khu vực bị “lung lay” có lẽ bắt đầu bằng cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ, những cạnh tranh lẫn nhau ở châu Á giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng trở nên quyết liệt hơn kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008. Chiến lược “Giấu mình chờ thời” với chính sách “gây cảm tình” ban đầu của Bắc Kinh với các nước kể từ đó đã được thay thế bằng chiến lược “Xuất đầu lộ diện” đi cùng những hành động mang tính hăm dọa nhiều hơn và vấn đề gây chia rẽ lớn nhất giữa Mỹ, Trung trong khu vực Đông Á chính là những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông.

Bất chấp mọi nỗ lực của ASEAN, Trung Quốc đã vi phạm đáng kể các chuẩn mực theo Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), sau đó nước này cũng liên tục vi phạm một cách trắng trợn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) thông qua những hoạt động như bồi đắp, xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo trên quy mô lớn ở Biển Đông.

Trong phạm vi khu vực, việc Trung Quốc chiếm đoạt bãi cạn Scarborough từ tay Philippines vào năm 2012 là một sự kiện “mang tính bước ngoặt”. Mọi nỗ lực của Chính quyền Tổng thống B.Obama trong việc dàn xếp để Bắc Kinh và Manila cùng rút khỏi bãi cạn này đã thất bại. Tuy nhiên, điểm “chốt hạ” quan trọng là việc trong vòng trên dưới 3 năm, Bắc Kinh đã nhanh chóng xây dựng các đảo nhân tạo có diện tích gần 1.300 ha từ đầu năm 2013 đến năm 2016, giúp cho Trung Quốc dễ dàng triển khai các tiền đồn quân sự cách xa bờ hàng trăm hải lý để kiểm soát “nhất cử, nhất động” trên Biển Đông. Việc làm trên đã được một bài báo của Philippines ngày 31/07/2013 lần đầu tiên “báo động sớm” về khả năng Trung Quốc bồi lấp các bãi cạn, đảo chìm ở Trường Sa, nhưng phải đến tháng 02/2015, hình ảnh toàn diện về các đảo nhân tạo mới được công khai. Vào thời điểm đó, Mỹ và các đồng minh của họ, dù vô tình hay hữu ý, đã phớt lờ áp lực quốc tế yêu cầu họ phải ngăn chặn hành động xây dựng đảo – chẳng hạn như phong tỏa bằng hải quân, khi vấn đề xây dựng đảo vào thời điểm đó là sự đã rồi.

Thứ hai, lợi dụng sự “co thủ” trong các hoạt động kiềm chế của các nước, Trung Quốc đã thực thi có hệ thống nhiều biện pháp trái với luật pháp quốc tế để thực hiện tham vọng về chủ quyền ở Biển Đông. Chính phủ Trung Quốc và truyền thông nhà nước này thường xuyên tuyên truyền rằng, Bắc Kinh là “nạn nhân” của các chính sách kiềm chế phi lý của Mỹ và đồng minh. Họ đưa ra một số dẫn chứng như việc đồn trú của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ ở Darwin/Australia, các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) của Mỹ ở Biển Đông… để “la làng” về sự “bắt nạt” của Mỹ. Tuy nhiên, hầu như không có sự kiềm chế hiệu quả nào đối với các hành vi bất hợp pháp của Bắc Kinh ở Biển Đông, vì thế họ càng liều lĩnh và trắng trợn hơn trong các hành động này. Có thể điểm lại những vi phạm trắng trợn của Bắc Kinh đối với luật pháp quốc tế và trật tự dựa trên nguyên tắc, thậm chí còn nặng nề hơn so với việc Bắc Kinh vi phạm UNCLOS 1982.Đó là: Năm 1974, đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam; năm 1988, đánh chiếm 6 đảo đá của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa; năm 2012, chiếm đoạt bãi cạn Scaborough của Philippines bằng lực lượng quân sự. Ngoài ra, chưa kể các hành động hỗ trợ tàu Hải Dương 981 xâm phạm Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam năm 2014; đánh cá trộm tại vùng biển Indonesia năm 2016; quấy rối tàu thăm dò dầu khí của Malaysia tại bãi Luconia tháng 5/2019…

Câu hỏi đặt ra là, trước các hành vi của Trung Quốc, các nước trong khu vực nên có các hoạt động phản đối hay đầu hàng Bắc Kinh?Hãy xem những diễn biến cụ thể để có câu trả lời về vấn đề này.

Đầu năm 2017, trước những hành động khiêu khích của Trung Quốc ở Biển Đông, Australia và Ấn Độ đã đưa ra lập trường đáp trả cứng rắn. Tại Đối thoại Shangri-La vào tháng 6/2017, Thủ tướng Australia lúc đó là ông Malcolm Turnbull đã tuyên bố rằng, khu vực này phải duy trì “cấu trúc dựa trên nguyên tắc” và “điều này đồng nghĩa với việc hợp tác, chứ không phải là chiến thắng thông qua tham nhũng, can thiệp hoặc hăm dọa”. Còn đối với Ấn Độ, trong suốt cuộc đối đầu với Trung Quốc trong tranh chấp biên giới diễn ra tại Doklam, Ấn Độ ngày càng trở nên cứng rắn hơn với Trung Quốc.

Cuối năm 2017, Ấn Độ, Australia, Nhật Bản và Mỹ đã nhất trí khôi phục Đối thoại an ninh bốn bên (Bộ tứ 2.0) vốn bị sụp đổ vào năm 2008 khi Australia rút khỏi các cuộc tập trận Malabar sau khi Trung Quốc gây áp lực. Cuộc họp đầu tiên giữa các quan chức cấp cao của Bộ tứ 2.0 đã được tổ chức vào tháng 11/2017, nội dung thảo luận bao gồm cả việc duy trì trật tự dựa trên nguyên tắc, an ninh biển và quyền tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Tuy nhiên, do sự thiếu nhất trí về các vấn đề then chốt, nên các nước này đã không đưa ra được một thông cáo chung.

Đáng chú ý là, năm 2018 xuất hiện những dấu hiệu lẫn lộn về mức độ cam kết của Bộ tứ trong việc phản kháng đối với những vi phạm của Bắc Kinh. Tháng 4/2018, Thủ tướng Ấn Độ Modi đã có cuộc gặp thượng đỉnh với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trước khi diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh 3 bên giữa các nhà lãnh đạo của Nhật Bản, Hàn Quốc và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường hai tuần sau đó. Cả hai cuộc gặp này đều được các bên sử dụng ngôn từ nồng ấm một cách đáng ngạc nhiên và truyền thông nhà nước Trung Quốc tuyên bố rằng, cuộc gặp thượng đỉnh 3 bên đã “đưa mối quan hệ lạnh nhạt giữa Trung Quốc và Nhật Bản trở lại đúng lộ trình”.

Sự thiếu vắng vai trò dẫn dắt kinh tế của Washington sau khi họ từ bỏ Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một khu vực thương mại tự do chiếm 40% GDP toàn cầu, đã mở đường cho Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốcđẩy nhanh các cuộc đàm phán về một Hiệp định thương mại tự do (FTA) lớn khác không có Mỹ tham gia – Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Đương nhiên, Trung Quốc sẽ rất thèm muốn vai trò “lãnh đạo” trong Hiệp định này.

Hiện tại, có nhiều tranh cãi về tính thiết thực và tương lai của Bộ tứ 2.0, nhưng xuất phát từ sự thiếu vắng vai trò “cầm trịch” đáng kể của Mỹ và một “cú sốc” quốc tế để gắn kết 4 nước lại với nhau, Bộ tứ sẽ không có tác động rõ ràng đến sự đánh giá, phân tích giữa được và mất, giữa phí tổn và lợi ích của Bắc Kinh. Chẳng hạn, trong thời gian diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh Ấn-Trung, New Delhi một lần nữa đã từ chối yêu cầu của Canberra tham gia trở lại các cuộc tập trận Malabar với tư cách là quan sát viên.Trong khi đó, niềm tin của khu vực vào Mỹ còn bị xói mòn hơn nữa do Chính quyền B.Obama đã giảm bớt 19% ngân sách hỗ trợ an ninh cho khu vực Đông Nam Á (năm 2010-2015) và Tổng thống Donald Trump vào năm 2018 cũng tuyên bố ý định giảm bớt tổng ngân sách thêm 24,4%.

Như vậy, phải chăng trật tự hậu Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ sụp đổ? Trung Quốc đã chứng tỏ có năng lực rất lớn trong việc tự làm mới bản thân cả ở trong nước lẫn trên trường quốc tế và những thành tựu trong một vài thập kỷ qua đối với một nước đông dân như vậy là chưa từng có tiền lệ. Vì thế, Bắc Kinh đang ngày càng xét lại những gì ảnh hưởng tới “lợi ích cốt lõi” của mình và có những hành xử thách thức đối với trật tự khu vực trong đó có vai trò lãnh đạo của Mỹ, các chuẩn mực và luật pháp quốc tế. Dựa trên xu hướng hiện tại để xem xét, trật tự châu Á – Thái Bình Dương hậu Chiến tranh thế giới thứ hai có vẻ như là đang bên bờ vực suy tàn trước sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Ngoài việc thiếu vắng vai trò lãnh đạo của Mỹ, sự lưỡng lự lớn hơn của các nước tại chỗ trong việc ứng phó với các mối đe dọa khu vực cũng đang gây bất ổn sâu sắc. Điều này sẽ không thay đổi chừng nào không có một quan điểm hài hòa hơn về những mối đe dọa then chốt mà trật tự dựa trên nguyên tắc mang tính ổn định phải đối mặt. Trong khi đó, một cuộc chiến thương mại tiềm tàng sẽ làm suy yếu trật tự kinh tế tự do và gây bất ổn hơn nữa cho khu vực.

Đối với những đánh giá cho rằng, Biển Đông trên thực tế sắp “mất” về tay Bắc Kinh có thể còn gây tranh cãi, vì đánh giá này dựa trên giả định không có thay đổi đáng kể nào trong cách tiếp cận của các nước trong khu vực về vấn đề này. Tuy nhiên, nếu các nước trong khu vực hợp tác mạnh mẽ với nhau nhằm làm thay đổi những đánh giá, phân tích về được, mất của Bắc Kinh, thì tình hình có thể diễn ra những thay đổi tích cực. Để đạt được mục tiêu này, Biển Đông cần một bộ quy tắc ứng xử có ý nghĩa nhưng năng lực của ASEAN trong việc đàm phán về vấn đề này là điều còn phải xem xét.

Vậy câu hỏi đặt ra tiếp theo là các nước nên làm gì?

Trước hết, một nhóm nhỏ các nước ASEAN có thiện chí có lẽ cần đàm phán về bộ quy tắc hoặc các nước tuyên bố chủ quyền chính thuộc ASEAN thay vào đó có thể đưa ra một bộ quy tắc ứng xử với các nước có liên quan không thuộc ASEAN nhưng có vai trò then chốt và thể hiện nó như một sự đã rồi đối với Bắc Kinh. Còn cần rất nhiều điều nữa, trong đó có các hoạt động FONOP và các cuộc tuần tra của lực lượng bảo vệ bờ biển đa quốc gia. Các cuộc tuần tra của lực lượng bảo vệ bờ biển đa quốc gia có thể kiểm soát và bảo vệ các nguồn lực trong khu vực không có tranh chấp “về mặt pháp lý” thuộc Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của một nước có thiện chí.Những hoạt động này cũng có thể áp dụng trên khắp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Để đạt được mục đích này, cần phải có các cuộc đối thoại chiến lược giữa những bên ủng hộ trật tự dựa trên nguyên tắc. Dù được dẫn dắt bởi các chính phủ hay bởi các tổ chức tư vấn chiến lược khu vực theo Kênh 1.5 (như là bước đi đầu tiên), thì một cuộc đối thoại như vậy có thể giúp điều phối các hoạt động đa phương và là nền tảng cho việc phát đi tín hiệu mạnh mẽ hơn tới Bắc Kinh. Thậm chí, cuối cùng sẽ cần có một hiệp ước phòng thủ chung để đảm bảo cho các phản ứng tập thể trước những nỗ lực về mặt quân sự nhằm làm thay đổi nguyên trạng ở biển Hoa Đông, biển Bắc Natuna và những nơi khác.

Tiền lệ xảy ra ở Biển Đông và bán đảo Crimea sẽ khuyến khích hơn nữa các nước theo chủ nghĩa xét lại thực hiện thêm những hành động mang tính hăm dọa khi chính sách ngoại giao thất bại. Khu vực này không thể kỳ vọng Mỹ sẽ dốc sức bảo vệ.Nếu các nước tuân thủ nguyên tắc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương hành động cùng nhau thì điều đó có thể tạo ra động lực lôi kéo Mỹ tái can dự vào khu vực một cách thực chất hơn và có tính xây dựng hơn. Bất cứ thất bại trên mặt trận nào cũng sẽ phát đi tín hiệu tới Bắc Kinh rằng, nước này được hưởng lợi từ các hành động hăm dọa hoặc các hành động quân sự trong tương lai ở các vũ đài khu vực khác.

RELATED ARTICLES

Tin mới