Friday, April 19, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaBiện pháp tạo tiền đề giải quyết hòa bình tranh chấp chủ...

Biện pháp tạo tiền đề giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông năm 2020

          Để tìm kiếm một giải pháp được các bên đồng thuận và nhất trí cao, tiến tới giải quyết ổn thỏa các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải ở Biển Đông trong thời gian tới là khó khả thi. Tuy nhiên, để tạo tiền đề và thống nhất lập trường, quan điểm, cũng như các tiếp cận của các bên liên quan khi tìm kiếm biện pháp phù hợp, các nước cần kiềm chế, tuân thủ luật pháp quốc tế, chấm dứt các hành vi khiêu khích, đe dọa, xâm phạm chủ quyền hợp pháp của nước khác.

Các nước không thống nhất quan điểm trong vấn đề Biển Đông

Trong nhiều năm nay, tình hình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đang ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường hòa bình, ổn định và xu thế hợp tác trong khu vực. Các nước liên quan tranh chấp và cộng đồng quốc tế đã, đang tìm kiếm một giải pháp thỏa đáng để giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, hầu hết các giải pháp đưa ra đều rơi vào bế tắc. Nguyên nhân chủ yếu là do các bên liên quan không thống nhất được quan điểm, cách tiếp cận chung khi xử lý vấn đề này.

Đầu tiên, tranh chấp ở Biển Đông có tính chất phức tạp, bao gồm tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và tranh chấp về ranh giới các vùng biển và thềm lục địa do các quốc gia ven Biển Đông khi vận dụng quy định của UNCLOS để xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của mình, đã tạo ra những vùng chồng lấn. Hai loại tranh chấp này hoàn toàn khác nhau về nội dung, tính chất, phạm vi và nguyên nhân… Vì vậy, các nguyên tắc pháp lý để xử lý, giải quyết chúng cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, vì có mối quan hệ với nhau do tồn tại trong cùng một phạm vi địa lý và tác động qua lại của chúng, nhất là trong việc xác định phạm vi các vùng biển, thềm lục địa có tính đến hiệu lực của các quần đảo này như thế nào, cũng là nguyên nhân gây nên những nhận thức khác nhau nói trên.

Ngoài hai tranh chấp ở trên, tại Biển Đông hiện còn tồn tại tranh chấp về việc khai thác, đánh bắt hải sản. Tuy nhiên, tranh chấp này lồng ghép và có liên quan trực tiếp đối với tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và tranh chấp về ranh giới các vùng biển, thềm lục địa. Trung Quốc thường xuyên cho tàu cá, tàu quân sự đội lốt tàu cá xâm nhập trái phép vào sâu trong vùng biển, ngư trường truyền thông của Việt Nam cũng như Indonesia, Philippines, Malaysia… để đánh bắt trộm hải sản và tiến hành các hoạt động phá hoại khác. Đã có rất nhiều vụ tàu cá Trung Quốc, thậm chí là các loại tàu chấp pháp như Hải Cảnh, Ngư chính… cố tình đâm va, tàu của Việt Nam ở Biển Đông. Không những vậy, số tàu này của Trung Quốc cùng thường xuyên cướp tài sản của ngư dân Việt Nam như xăng dầu, hải sản đánh bắt được, ngư cụ, tài sản mang theo… Ngoài ra, nhiều nước đã có bằng chứng chứng minh tàu cá Trung Quốc thường xuyên sử dụng các phương thức đánh bắt mang tính hủy diệt và phá hủy môi trường sinh thái ở Biển Đông. Những hành động này của tàu Trung Quốc đã làm dấy lên phòng trào phản đối Trung Quốc, khiến nhiều nước phải tăng cường đầu tư cho các lực lượng chấp pháp để tuần tra, giám sát và ngăn chặn hoạt động phi pháp của tàu Trung Quốc trên Biển Đông. Để giải quyết tranh chấp trong những vấn đề này bằng UNCLOS là rất khó khăn.

Thứ hai, do Biển Đông có nguồn tài nguyên phong phú và vị trí địa chiến lược quan trọng khiến các nước “không thể bỏ qua”.Biển Đông được xác định có trữ lượng dầu mỏ khoảng 1,2 km³ (7,7 tỷ thùng), với ước tính tổng khối lượng là 4.5 km³ (28 tỷ thùng). Trữ lượng khí tự nhiên được ước tính khoảng 7.500 km³, trong đó nhiều nguồn năng lượng mới được tìm thấy ở khu vực này, điển hình là băng cháy (với trữ lượng lớn và được dự báo là nguồn năng lượng của tương lai). Biển Đông cũng chiếm một phần ba toàn bộ đa dạng sinh học biển thế giới, vì vậy nó có vai trò rất quan trọng đối với hệ sinh thái biển. Ngoài ra, Biển Đông là tuyến đường hàng hải huyết mạch, có ý nghĩa chiến lược to lớn trong sự phát triển về mọi mặt của các quốc gia. Biển Đông hiện là đường hàng hải đông đúc thứ hai trên thế giới, trong khi nếu tính theo tổng lượng hàng hoá thương mại chuyển qua hàng năm, hơn 50% đi qua eo biển Malacca, eo biển Sunda và eo biển Lombok. Hơn 1,6 triệu m³ (10 triệu thùng) dầu thô được chuyển qua eo biển Malacca hàng ngày. Mặt khác, Biển Đông cũng là vùng biển có giá trị to lớn về vị trí chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển an ninh – quốc phòng đối với các nước trong khu vực đang có tranh chấp.

Thứ ba, do việc giải thích, áp dụng sai các quy định về luật pháp quốc tế, điển hình là việc Trung Quốc cố tình bóp méo, viện dẫn sai các quy định của UNCLOS về quy chế đảo, đá, vùng nước lịch sử; liên tục đưa ra các tuyên bố biện minh cho rằng “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi ở Biển Đông” và rằng “Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Đông Sa và các vùng nước phụ cận”; Trung Quốc cũng viện dẫn sai các quy định trong UNCLOS, đặc biệt là quy định các nước ven biển có quyền hoạch định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) trong phạm vi 200 hải lý kể từ đường bờ biển để đưa đường lưỡi bò vào bản đồ quốc gia và hộ chiếu.

Thứ tư, do Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động trên thực địa và có chủ trương vô lý về việc giải quyết tranh chấp. Trung Quốc liên tục có các hoạt động phi pháp nhằm khẳng định chủ quyền ở Biển Đông. Trung Quốc liên tục bắt trái phép ngư dân các nước trong khu vực, phá hoại hoạt động của các tàu thăm dò dầu khí các tàu của trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam; hạ đặt phi pháp giàn khoan Hải dương 981 trong vùng biển của Việt Nam; đưa nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 vào thăm dò, khảo sát trái phép trong EEZ của Việt Nam; tiến hành cải tạo, quân sự hóa phi pháp hàng loạt các bãi cạn, đá ở Trường Sa; triển khai các loại vũ khí tấn công ở Hoàng Sa; đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm trên Biển Đông; đẩy mạnh hoạt động phi pháp của các lực lượng quân sự và bán quân sự tại Biển Đông dẫn tới tình hình căng thẳng tại Biển Đông trong thời gian gần đây. Ngoài ra, trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc luôn khăng khăng cho rằng mình có chủ quyền không thể tranh cãi (trên thực tế là dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), chỉ tiến hành đàm phán, hiệp thương hòa bình trực tiếp song phương với bên liên quan đối với tranh chấp ở Trường Sa, khẳng định “Hoàng Sa không tồn tại tranh chấp, thuộc chủ quyền của Trung Quốc” và rằng Trung Quốc không tham gia, không chấp nhận, không tuân thủ bất cứ phán quyết hoặc vụ kiện nào liên quan giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ.

Thứ năm, thiếu thống nhất trong nội bộ ASEAN và DOC không phải là văn kiện pháp lý để giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông giữa Trung Quốc với các nước ASEAN. ASEAN tiếp tục bị chia rẽ về cách ứng xử với Trung Quốc trong tranh chấp ở Biển Đông. Tuy tranh chấp Biển Đông là tranh chấp giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, song tranh chấp này có liên quan trực tiếp đến hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực, trong đó lợi ích của ASEAN là rõ ràng và thiết thực nhất. Tuy nhiên, do Trung Quốc sử dụng sức mạnh kinh tế, quân sự, ngoại giao để lôi kéo, mua chuộc, thậm chí là ép buộc một số nước ASEAN phải nghe theo Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, đưa ra các tuyên bố, hành đồng không phù hợp với lợi ích chung của ASEAN khiến nội bộ mất đoàn kết, cản trở việc đàm phán ký kết COC.

Thứ sáu, các nước lớn có lợi ích ở Biển Đông chưa thực sự có các hành động cụ thể góp phần giải quyết tranh chấp.Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ… mới chỉ tiến hành các hoạt động đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông, hỗ trợ các nước ven Biển Đông tăng cường năng lực quốc phòng, kêu gọi Trung Quốc kiềm chế các hoạt động leo thang căng thẳng và giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình. Những hành động trên là đáng quý, góp phần đảm bảo hòa bình, ổn định và tự do hàng hải của khu vực, song chưa đủ để thúc đẩy Trung Quốc ngồi vào bàn đàm phán đa phương, giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS.

Ngoài ra, còn một số yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông như: Sự thay đổi trong tính toán của một số nước về lợi ích chiến lược của các bên và cán cân sức mạnh giữa các quốc gia; các nước liên quan tranh chấp đều cho rằng mình có chủ quyền không thể tranh cãi và đầy đủ cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền đối với các tranh chấp ở Biển Đông; sự cạnh tranh ảnh hưởng và tập hợp lực lượng giữa các cường quốc.

Biện pháp khả thi trong bối cảnh hiện nay

Trước hết, các bên liên quan tranh chấp cần tuân thủ các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS cùng các văn kiện, tuyên bố khác trong quan hệ giữa các quốc gia; tuân thủ nguyên tắc không sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua đàm phán giữa các bên trực tiếp liên quan, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; kiềm chế trong việc thực hiện các hành vi có thể gây phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình ổn định, kể cả việc không đưa người đến ở trên những đảo, đá, bãi ngầm chưa có người ở.

Thứ hai, các bên liên quan cần đẩy mạnh các biện pháp xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa thông qua các hoạt động chung, như: nghiên cứu đại dương, hợp tác nghề cá, bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ trên biển, khắc phục hậu quả thiên tai, phòng, chống cướp biển, chống khủng bố, tuần tra chung, tập trận chung; nghiêm cấm các hành động làm gia tăng xung đột, tranh chấp ở Biển Đông. Ngoài ra, tranh chấp Biển Đông là vấn đề lâu dài, phức tạp, các bên liên quan không chủ quan, nóng vội trong đàm phán phân định biển để có thể tận dụng hết mọi khả năng cũng như cơ hội mà mình có được.

Thứ ba, cần thúc đẩy xây dựng COC: Xây dựng COC là việc làm cấp thiết, đem lại lợi ích không chỉ cho ASEAN và Trung Quốc mà cho tất cả các nước ở trong và ngoài khu vực. Tuy COC không thể là phương tiện để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ hay phân định ranh giới biển ở Biển Đông, nhưng COC sẽ tiếp tục là một công cụ xây dựng lòng tin nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định, tin cậy lẫn nhau và khuyến khích hợp tác sử dụng và quản lý Biển Đông một cách hòa bình, tối ưu trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; các biện pháp thực hiện trong khuôn khổ COC sẽ không gây phương hại đến quá trình giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và vùng biển. Các bên tham gia ký kết COC phải là toàn bộ thành viên của ASEAN và Trung Quốc, có thể xem xét việc tham gia của các quốc gia có lợi ích liên quan và COC phải là văn bản pháp lý tạo khuôn mẫu cho quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong bối cảnh ở Biển Đông đang tồn tại nhiều tranh chấp do lịch sử để lại và nhu cầu sử dụng biển của các quốc gia trong khu vực và quốc tế đang tăng lên; phát huy được vai trò chủ đạo của ASEAN trong vấn đề an ninh trên Biển Đông. Nội dung của COC và việc triển khai thực hiện COC phải tuân thủ nguyên tắc của UNCLOS, Hiệp ước thân thiện và hợp tác giữa các quốc gia Đông Nam Á (TAC), SEANWFZ, 5 nguyên tắc cùng chung sống hòa bình, kế thừa các quy định trong DOC và Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC, các nguyên tắc phổ biến của luật quốc tế đã được thừa nhận; phải thiết lập các nguyên tắc chung về việc không sử dụng bạo lực, tránh đe dọa, ngăn ngừa xung đột, đồng thời giúp giải quyết những va chạm xung quanh việc khai thác và đánh bắt trên biển, đảm bảo an toàn trên biển. Phạm vi áp dụng của COC phải được xác định rõ bao gồm tất cả các đảo và vùng nước bên ngoài ranh giới 200 hải lý tính từ đường cơ sở, lãnh hải của các quốc gia ven biển và các đảo ở Biển Đông. Cần phân định rõ khu vực tranh chấp và không tranh chấp, xác định rõ những hoạt động được phép và không được phép thực hiện tại khu vực tranh chấp; đặc biệt là tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển, quyền tự do và an ninh hàng hải, an ninh hàng không tại Biển Đông phù hợp với quy định của UNCLOS.

Thứ tư, các bên liên quan cần thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao, tăng cường mối quan hệ và hiểu biết lẫn nhau để có thể thông cảm và tạo điều kiện thuận lợi cùng nhau đi đến thống nhất chung; cần thỏa thuận các điều khoản là chế tài ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia ký kết nhằm giúp các điều ước đó thực hiện và có ý nghĩa cũng như giá trị thật sự trên thực tế.

Thứ sáu, Trung Quốc cần từ bỏ chủ trương vô lý và chấm dứt các hoạt động làm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông; thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp quốc tế cũng như các tuyên bố, hiệp định ký kết với các nước liên quan. Trong đó, Trung Quốc phải từ bỏ ngay chủ trương về việc chỉ tiến hành đàm phán song phương trực tiếp với từng nước liên quan; Trung Quốc phải thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam, Trung Quốc đã tiến hành chiếm đóng phi pháp và Trung Quốc phải tiến hành đàm phán với Việt Nam để giải quyết tranh chấp.

Thứ bảy, các nước ASEAN cần đoàn kết, thống nhất trong nội bộ khối trước khi tiến hành đàm phán với Trung Quốc để có lập trường thống nhất, đủ nặng buộc Trung Quốc phải tuân thủ các hiệp định, tuyên bố đã ký kết với ASEAN, trong đó có DOC và TAC; nhanh chóng thúc đẩy việc đàm phán và ký kết COC mang tính ràng buộc pháp lý nhằm góp phần giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.

Thứ tám, các nước lớn có lợi ích ở Biển Đông cần tích cực can thiệp sâu hơn vào tranh chấp Biển Đông, có các biện pháp cụ thể kiềm chế các hoạt động phi pháp của Trung Quốc nhằm làm thay đổi nguyên trạng ở Trường Sa và buộc Trung Quốc phải tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế.

Việt Nam cần làm gì

Để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ở Biển Đông, Việt Nam cần tiếp tục khẳng định chủ quyền của đối với quần đảo Hoàng Sa. Việc tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa trước hết, trên hết và chủ yếu là sự thể hiện thông qua vai trò, hành động cụ thể của Nhà nước và hoạt động quản lý nhà nước đối với vùng lãnh thổ đặc biệt quan trọng này. Theo quy định tại Điều 121 của Công ước Luật biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) năm 1982 về quy chế pháp lý của đảo, quần đảo có vùng biển riêng, việc quản lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa không chỉ được hiểu là quản lý phần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam mà còn phải quản lý các vùng nước xung quanh quần đảo này. Nhà nước phải tổ chức thực hiện việc quản lý các vùng nước này, một mặt nhằm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các quyền lợi của Việt Nam trên biển, mặt khác giữ nguyên hiện trạng phần lãnh thổ (các đảo) đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép, bảo vệ các vùng biển, ngăn chặn mở rộng tranh chấp ra các vùng nước xung quanh. Do đặc điểm hết sức đặc biệt đó, việc quản lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa vừa là hoạt động đối nội về hành chính, chính trị nhằm huy động sức mạnh tổng hợp bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển, vừa là hoạt động đối ngoại, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, thực thi luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên Hiệp Quốc và UNCLOS, nhằm bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải, giữ gìn hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển trên Biển Đông.

Thứ hai, Việt Nam cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện các thể chế pháp lý về quản lý nhà nước đặc thù liên quan đến quần đảo Hoàng Sa. Do cơ chế quản lý về biển, đảo theo ngành, lĩnh vực trong điều kiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển, đảo của nước ta còn thiếu đồng bộ và chồng chéo nên hiệu lực thi hành pháp luật yếu, tổ chức triển khai thiếu phối hợp giữa các ngành, các cấp, kể cả việc quản lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa. Do vậy, cần khẩn trương rà soát, xây dựng, ban hành các thể chế đặc thù, điều chỉnh riêng đối với các vấn đề liên quan đến các hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, như: Quản lý, khai thác, sử dụng, phát huy tài nguyên biển, nhất là khai thác khoáng sản, dầu khí, thủy sản; các hoạt động vận tải biển, hàng hải, hoạt động du lịch, nghiên cứu khoa học biển…; Các hoạt động tự quản nhằm bảo vệ ngư dân, hoạt động bán vũ trang, bảo vệ trật tự an toàn, tự do hàng hải và bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam; Các thể chế kêu gọi hợp tác quốc tế về kinh tế, quốc phòng an ninh, ngăn ngừa các nguy cơ cướp biển, xâm hại môi trường; hoạt động cứu hộ cứu nạn, cứu trợ nhân đạo và các hiểm họa phi truyền thống khác.

Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Biên soạn giáo trình thống nhất, đưa nội dung cơ bản về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa vào sách giáo khoa và chương trình giảng dạy ở các cấp, bậc học. Đồng thời, biên soạn tài liệu phổ biến những kiến thức cơ bản về lịch sử chủ quyền, thực trạng chủ quyền, chủ trương, giải pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa để tuyên truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Phổ biến, cung cấp tài liệu để các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài, các cá nhân và tổ chức, nhất là sinh viên và người Việt Nam ở nước ngoài tuyên truyền trong cộng đồng các quốc gia và quốc tế về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và trên Biển Đông. Mỗi người Việt Nam phải là một tuyên truyền viên, một đại sứ nhân dân trong việc tuyên truyền bảo vệ chủ quyền quốc gia. Khuyến khích trí thức, học giả, chuyên gia Việt Nam trong và ngoài nước đầu tư nghiên cứu khoa học, sưu tầm tài liệu, công bố các kết quả nghiên cứu về Hoàng Sa, Trường Sa trên các tạp chí uy tín của thế giới; tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế, phi chính phủ nhằm góp phần vào công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia ở ngoài nước. Tập trung nâng cao số lượng, đổi mới nội dung và đẩy mạnh tuyên truyền qua mạng, xem đây là giải pháp quan trọng trong công tác tuyên truyền trong thời gian đến.

Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động khai thác, phát huy tiềm năng kinh tế biển, hỗ trợ và bảo vệ ngư dân bám biển Hoàng Sa gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia trên Biển Đông. Cần xác định việc bảo vệ chủ quyền, bảo vệ ngư dân trên vùng biển Hoàng Sa trước hết và chủ yếu là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và lực lượng thực thi pháp luật của nhà nước trên biển. Do đó, cần đổi mới chính sách hỗ trợ ngư dân theo hướng hình thành các biên đội hậu cần nghề cá mạnh thông qua các tập đoàn, công ty nhà nước hoặc doanh nghiệp cổ phần, có sự tham gia hoặc hỗ trợ vốn, chính sách của nhà nước làm chỗ dựa cho ngư dân ngay chính trên ngư trường đánh bắt của mình. Các doanh nghiệp vừa cung ứng vật tư, nhiên liệu, vừa giải quyết bài toán kinh tế là bao tiêu sản phẩm, gắn với chính sách hỗ trợ đầu ra của sản phẩm, đồng thời là cơ sở để xác định và hỗ trợ nhiên liệu theo thực tế đối với ngư dân tham gia đánh bắt trên vùng biển Hoàng Sa, đặc biệt vừa làm “tiền đồn” để kết hợp kinh tế với quốc phòng trên biển nhằm bảo vệ ngư dân, bảo vệ chủ quyền trên vùng biển Hoàng Sa.

Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện các luận cứ khoa học, chuẩn bị nguồn lực trong vấn đề giải quyết tranh chấp trên Biển Đông liên quan đến quần đảo Hoàng Sa bằng các giải pháp pháp lý. Giải pháp pháp lý, trực tiếp là việc lựa chọn Tòa án quốc tế về Luật biển là phương thức giải quyết tranh chấp bắt buộc, vừa là quyền và cũng là nghĩa vụ của các quốc gia thành viên UNCLOS 1982. Theo đó, cần khẩn trương chuẩn bị nguồn lực, bao gồm cả nhân lực chuyên gia, tài liệu, nguồn lực vật chất khác, kinh nghiệm và các mối liên hệ với tổ chức quốc tế liên quan để chuẩn bị hành trang đầy đủ, tối ưu cho việc sẵn sàng lựa chọn giải pháp pháp lý trong tương lai. Có chính sách thu hút, đào tạo, cử tuyển nhân tài trên lĩnh vực luật quốc tế, luật biển để tham gia vào chương trình đào tạo chuyên sâu, các diễn đàn học thuật, các diễn đàn tranh tụng pháp lý quốc tế, tăng cường chính sách hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu trong và ngoài nước về các lĩnh vực liên quan đến biển, trước hết là luật biển và quan hệ quốc tế để chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho quốc gia.

Thứ sáu, tăng cường năng lực các lực lượng hỗ trợ, thực thi pháp luật và dân quân tự vệ trên vùng biển Hoàng Sa. Từ kinh nghiệm đấu tranh chống Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 và tàu khảo sát Hải Dương 8 trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, cần đầu tư trang bị phương tiện, củng cố lực lượng thực thi pháp luật trên biển để duy trì thường xuyên các hoạt động bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên biển, bảo vệ ngư dân, duy trì trật tự pháp luật trên biển, bảo vệ các tổ chức, cá nhân hoạt động hợp pháp, như hoạt động vận tải biển, thăm dò, khai thác dầu khí, điều tra nghiên cứu khoa học biển…. Mặt khác, cần tổ chức lại lực lượng dân quân tự vệ trên biển linh hoạt và chuyên nghiệp hơn, phiên chế theo khu vực đánh bắt thay vì theo tàu và địa bàn thường trú của chủ tàu như hiện nay. Tổ chức quản lý thông qua thiết bị công nghệ thu phát sóng hiện đại được trang bị cho các tàu cá, được kết nối và hỗ trợ bởi các lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư và Hải quân nhằm tăng cường tính chủ động, linh hoạt, kịp thời, thu hẹp khoảng cách địa lý, tăng cường tần suất tuần tra trên từng vùng biển của các lực lượng chức năng, phối hợp tác chiến hiệu quả trong ứng phó với các tình huống, sự cố trên biển của ngư dân, đặc biệt là các tình huống bị tàu Trung Quốc hay cướp biển tấn công, hoặc khi tàu bị tai nạn, sự cố kỹ thuật…

Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường các hoạt động bổ trợ cho các giải pháp pháp lý như giao lưu, trao đổi học thuật về Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa. Tập trung đầu tư nguồn lực để tạo dựng một diễn đàn học thuật có uy tín và mang tầm vóc khu vực, quốc tế, có sức hút mạnh mẽ đối với giới học thuật và chính khách quốc tế về Biển Đông để thúc đẩy các nỗ lực giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, đàm phán, thương lượng và thông qua Tòa án quốc tế. Đồng thời, trên cơ sở diễn đàn này, chủ động và nỗ lực thu hút các quốc gia có tranh chấp, các cường quốc có lợi ích trên biển và các đối tác đối thoại tiến đến một định chế ứng xử trên Biển Đông nhằm thiết chế hóa, điều chỉnh quan hệ và hành vi các bên trên Biển Đông phù hợp với chuẩn mực quốc tế.

RELATED ARTICLES

Tin mới