Friday, March 29, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaPhân định Vùng chồng lấn thềm lục địa: Bài toán hạn chế...

Phân định Vùng chồng lấn thềm lục địa: Bài toán hạn chế căng thẳng trên Biển Đông

Biển Đông là một biển rìa lục địa, ở phía Tây Thái Bình Dương, là vùng biển nửa kín trải rộng từ Singapore tới eo biển Đài Loan, bao phủ một diện tích khoảng 3,5 triệu km2. Có 9 nước và một vùng lãnh thổ tiếp giáp Biển Đông, gồm Việt Nam, Trung Quốc và Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Campuchia và Đài Loan. Trong vùng biển này hiện còn tồn tại nhiều vùng chồng lấn trên thềm lục địa giữa các nước, điều này đã, đang và sẽ gây những tác động xấu đối với hòa bình, ổn định trong khu vực.

Vùng khai thác chung Việt Nam – Malaysia theo thỏa thuận (MOU) 5/6/1992

Quá trình hình thành Vùng chồng lấn

Các quốc gia ven biển nằm đối diện hay kế cận nhau, khi xác định phạm vi các cùng biển và thềm lục địa theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) và tùy theo khoảng cách bờ biển của các nước nằm đối diện hay kế cận nhau đã tạo ra vùng nội thủy chồng lấn, vùng lãnh hải chồng lấn, vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn và vùng thềm lục địa chồng lấn. Tình trạng này mỗi khi chưa được các bên liên quan tiến hành đàm phán hoạch định  ranh giới rõ ràng thì được xếp vào loại tranh chấp biển cần giải quyết giữa các quốc gia ven biển có liên quan. Loại tranh chấp này có nguyên nhân xuất phát từ việc giải thích và áp dụng các quy định của UNCLOS 1982. 

Đây là loại tranh chấp được hình thành trong xu hướng thay đổi có tính chất cách mạng về địa – chính trị, địa – kinh tế trên phạm vi toàn thế giới, với việc khoảng 36% diện tích biển và đại dương thế giới đã được đặt dưới chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển kể từ khi UNCLOS 1982 ra đời. Kết quả là trên thế giới còn khoảng 416 tranh chấp về ranh giới biển, thềm lục địa cần được hoạch định, trong đó khu vực đông nam châu Á có khoảng 15 tranh chấp. 

Tất nhiên người ta không tính đến tranh chấp được tạo thành bởi yêu sách không dựa vào các quy định của UNCLOS 1982 hoặc cố tình giải thích sai Công ước này để phục vụ cho tham vọng chính trị của minh. Chẳng hạn, đường biên giới “lưỡi bò” của Trung Quốc là yêu sách đã bị lên án và bác bỏ bởi hầu hết các quốc gia trong khu vực và quốc tế, do tính chất phản khoa học và hoàn toàn đi ngược lại các tiêu chuẩn của UNCLOS 1982. 

Phân định vùng chồng lấn

Vấn đề phân định ranh giới các vùng chồng lấn đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được quy định ở Điều 74 và 83. Nội dung của hai điều này về cơ bản là giống nhau, theo đó “việc phân định vùng đặc quyền kinh tế/thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển liền kề hoặc đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận phù hợp với luật pháp quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa án Công lý Quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng”. Thông qua các án lệ phân định biển của các cơ quan tài phán quốc tế, quy định trên đã được làm rõ hơn. Trong đó, phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) trong vụPhân định biển ở khu vực Biển Đen giữa Romania và Ukraina năm 2009 được xem là một án lệ điển hình xác định rõ về nguyên tắc công bằng và phương pháp ba bước để phân định vùng chồng lấn đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Mặc dù nguyên tắc và phương pháp cụ thể để phân định biển đã được phát triển khá rõ ràng, nhưng do thực tế địa lý, địa chất và hoàn cảnh đặc thù của từng khu vực biển nên hiện nay vẫn còn nhiều vùng biển chồng lấn chưa được phân định.

Tuy nhiên, trong quá trình phân định vùng chồng lấn, các bên liên quan cần tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế. Theo đó, khi xem xét và đánh giá việc giải thích và áp dụng các quy định UNCLOS 1982 của các quốc gia ven biển có liên quan đến vùng chồng lấn và vấn đề hoạch định ranh giới vùng chồng lấn: (i) Để phân định các vùng chồng lấn các bên liên quan bắt buộc phải sử dụng biện pháp ngoại giao thông qua các cuộc đàm phán song phương (nếu vùng chồng lấn chỉ liên quan đến 2 quốc gia ven biển) hay đa phương (nếu vùng chồng lấn liên quan đến nhiều quốc gia ven biển). (ii) Nếu đàm phán ngoại giao không thành công, các bên liên quan có thể cùng nhau thỏa thuận sử dụng đến các cơ quan tài phán quốc tế. Trong trường hợp tranh chấp do hoạch định ranh giới các vùng chồng lấn, các cơ quan tài phán quốc tế không có thẩm quyền thụ lý và xét xử hồ sơ đơn phương. (iii) Khi đàm phán hoạch định các bên cần tuân thủ nguyên tắc công bằng; nghĩa là các bên phải thống nhất một giải pháp công bằng cho tất các bên liên quan. (iv) Để đảm bảo nguyên tắc công bằng, thông thường các bên liên quan hay các cơ quan tài phán có thể sử dụng các phương pháp hoạch định khác nhau tùy theo sự thỏa thuận có tính đến những đặc điểm, điều kiện cụ thể…  Phương pháp phổ biến và thông dụng nhất là phương pháp trung tuyến hay trung tuyến có điều chỉnh mà việc xác lập phải  tuân theo những công thức tính toán đo đạc do các chuyên gia chuyên ngành bản đồ thực hiện. Đáng chú ý, trong khi các bên đang đàm phán hoạch định vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa chồng lấn, Công ước không quy định dùng Trung tuyến làm ranh giới tạm thời để phân chia quyền hạn và trách nhiệm của các bên liên quan. Các bên khi tiến hành bất kỳ hoạt động nào trong vùng chồng lấn đều phải có sự thỏa thuận của các bên liên quan. Tuy nhiên, trong vùng lãnh hải chồng lấn Công ước lại quy định: “Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại”. Đây là điều mà một số cơ quan, lực lượng chuyên trách của Việt Nam đã có sự nhầm lẫn khi xử lý một số tình huống xẩy ra trong vùng chồng lấn ở ngoài cửa vịnh Bắc Bộ có liên quan đến hoạt động của một số dàn khoan Trung Quốc ở  “phía Đông của Trung tuyến giả định”. (v) Trong khi đàm phán hoạch định vùng chồng lấn, nếu chưa thông nhất được phương án cuối cùng, các bên có thể sử dụng giải pháp tạm thời có tính thực tiễn: “khai thác chung” vùng chồng lấn (joint-development of overlapping area). Nhưng chỉ áp dụng giải pháp này cho vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa chồng lấn. Trong vùng lãnh hải chồng lấn không áp dụng giải pháp tạm thời này mà chỉ có quy định liên quan đến vai trò của Trung tuyến như đã nêu ở trên. 

Kinh nghiệm từ Việt Nam

Cho đến thời điểm này Việt Nam đã đàm phán thành công và ký kết một số các thỏa thuận phân định biển với các nước làng giềng như Hiệp định Phân định Ranh giới trên biển với Thái Lan (1997), Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc (2000) và Hiệp định Phân định Ranh giới Thềm lục địa với Indonesia (2003). Hiện nay Việt Nam vẫn đang tiếp tục đàm phán để xác định ranh giới cho các vùng biển chồng lấn khác, như vùng biển chồng lấn ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ hay vùng chồng lấn đặc quyền kinh tế với Indonesia. Cụ thể:

Phân định với Thái Lan trong Vịnh Thái Lan:Thái Lan và Việt Nam là hai nước có bờ biển đối diện, cùng có quyền mở rộng vùng biển của mình, tạo ra một vùng chồng lấn rộng khoảng 6074km2. Trong vịnh, Thái Lan là nước đầu tiên đã thăm dò và khai thác dầu khí. Ngày 18/5/1973, Thái đơn phương vạch ranh giới ngoài của thềm lục địa Thái Lan trong Vịnh và công bộ các tọa độ của con đường này. Ranh giới này là đường trung tuyến giữa một bên là các đảo quan trọng của Thái Lan như  Ko Phangun, Ko Samui và bờ biển Thái Lan… và bên kia là các đảo quan trọng và bờ biển của các quốc gia liên quan như đảo Rong, Xalem của Campuchia, Phú Quốc, Mũi Cà Mau của Việt Nam… Đây chính là yêu sách tối đa của Thái Lan, khai thác việc xác định các “hoàn cảnh đặc biệt” theo điều 6 của Công ước Giơnevơ năm 1958 về thềm lục địa mà Thái Lan là một phê chuẩn. Để vạch ranh giới này Thái đã cố tình bỏ qua các đảo xa bờ như đảo Ko Kra, Ko Losin của Thái, đảo Poulo Wai của Campuchia và quần đảo Thổ Chu của Việt Nam. Đường yêu sách do Việt Nam đưa ra năm 1971 được coi là đường trung tuyến vạch giữa một bên là Hòn Khoai, Thổ Chu và Poulo Wai và bên kia là bờ biển Thái Lan và đảo Ko Phangun, không tính đến các đảo nhỏ Ko Kra và Ko Losin của Thái Lan. Ngoài vấn đề thềm lục địa, Việt Nam và Thái Lan đều đã đơn phương tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế của mình, Việt Nam với tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển ngày 12/5/1977; Thái Lan với tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế ngày 23/2/1981. Cả hai bên đề có tuyên bố về đường cơ sơ: Việt Nam với tuyên bố của Chính phủ về đường cơ sở Việt Nam năm 1982; Thái Lan với tuyên bố về hệ thống đường cơ sở ngày 11/6/1970 và tuyên bố bổ sung ngày 19/8/1992 liên quan tới các đảo đá Ko Kra và Ko Losin. Tuy nhiên các tuyên bố này của hai bên đều không đưa ra một ranh giới thật sự nào của vùng đặc quyền kinh tế hai bên. Như vậy giữa Thái Lan và Việt Nam có hai vấn đề cần giải quyết: phân định thềm lục địa và phân định vùng đặc quyền kinh tế. Sau nhiều vòng đàm phán, hai bên đã thỏa thuận đường phân chia ranh giới thềm lục địa cũng chính là đường phân chia vùng đặc quyền kinh tế, thể hiện trên hải đồ là đường thẳng kẻ từ điểm C tới điểm K. Điểm C chính là điểm nhô ra nhất của khu vực khai thác Thái Lan – Malaysia và điểm K nằm trên đường thẳng cách đều Thổ Chu và Poulo Wai thuộc vùng dàn xếp tạm thời của Việt Nam – Campuchia. Ngoài việc hoạch định đường này, hai bên thỏa thuận về các vấn đề khác liên quan đến việc khai thác dầu khí ở đây cũng cơ bản như các quan niệm ở thỏa thuận của vùng khai thác chung Việt Nam – Malaysia.

 Phân định với Malaysia:Trong Vịnh Thái Lan, Việt Nam còn có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với Malaysia với tư cách hai nước có bờ biển đối diện. Do cả hai nước đều đã phê chuẩn và xác định các vùng biển của mình theo tiêu chí của Công ước nên hình thành vùng chồng lấn với bề rộng 2.800km2. Ban đầu, Malaysia quan niệm đã hoạch định đúng thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền của mình nên từ năm 1986 đã ký ba hợp đồng với các công ty dầu khí nước ngoài mà phạm vi hoạt động khai thác của các công ty này bao trùm lên cả thềm lục địa do Việt Nam yêu sách. Trước bối cảnh nêu trên, với sự gặp nhau ở những quan điểm cơ bản cho vấn đề tranh chấp giữa hai bên nên ngày 5/6/1992 bản ghi nhớ về khai thác chung đã được ký kết tại Kuala Lumpur. Đây là cơ sở pháp lý quốc tế chủ yếu để hai bên tiến hành các hoạt động thăm dò, khai thác và sử dụng vùng này. Theo thỏa thuận này, một vùng chồng lấn hiện hữu giữa hai bên gọi là “vùng xác định” và loại bỏ ra ngoài các vùng chồng lấn có liên quan đến bên thứ ba trong vùng chồng lấn ba bên Việt Nam – Malaysia – Thái Lan. Sau khi bản ghi nhớ nêu trên có hiệu lực, thỏa thuận thương mại giữa hai đối tác đại diện của Chính phủ hai nước là Petronas (Malaysia) và Petrovietnam (Việt Nam) đã được ký kết ngày 25/8/1993. Thỏa thuận này quy định một cách khá cụ thể quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên. Cơ chế điều hành hoạt động ở vùng này thông qua Ủy ban hỗn hợp ở cấp cao. Ủy ban này giải quyết các vấn đề cao và thành lập ủy ban điều phối để xác định phần đóng góp của các bên; giám sát hoạt động của các nhà thầu; giải quyết việc cung ứng dịch vụ của hai nước. Với cơ chế nêu trên, hiện nay, các giếng dầu tại các vùng này được khai thác một cách có hiệu quả.

Phân định với Indonesia:Có thể hình dung về vùng thềm lục địa chồng lấn giữa Việt Nam và Indonesia là khu vực này nằm ở phía đông nam Việt Nam và Tây Bắc đảo lớn Borneo của Indonesia. Trong khu vực này, đảo xa bờ nhất của Việt Nam là Côn Đảo, cách bờ biển Việt Nam khoảng 90 hải lý. Khu vực này không có nhiều tiềm năng về tài nguyên cá mà chỉ có tiềm năng về dầu khí ở phía đông. Điểm đáng lưu ý nữa là Indonesia là thành viên của cả hai Công ước Luật Biển 1958 và 1982, còn Việt Nam chỉ là thành viên của Công ước 1982. Ngày 26/6/2003, Hiệp định về phân định thềm lục địa giữa hai nước đã được ký chính thức tại Hà Nội. Hiệp định này có nội dung tương tự như các quy định trong hiệp định ký với Thái Lan và Trung Quốc.

Phân định với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ:Do Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh nên khi Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển cho phép các quốc gia ven bờ vịnh quyền mở rộng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa đã dẫn đến tranh chấp về biển giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ. Sau 10 năm (1991-2000) đàm phán giữa hai nước về phân định Vịnh Bắc Bộ theo nguyên tắc công bằng, qua thương lượng hữu nghị hai bên đã đi đến các thỏa thuận về thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế như sau: (1) Đồng ý đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ được xác định bằng 21 điểm có tọa độ địa lý xác định nối tuần tự với nhau bằng các đoạn thẳng. Đường phân định từ điểm số 9 đến điểm số 21 là ranh giới giữa vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ. (2) Đồng ý giành cho Bạch Long Vĩ hiệu lực một vòng cung 15 hải lý tính từ điểm nhô ra nhất của đảo về phía đông và đảo Cồn Cỏ được tính 50% hiệu lực trong phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. (3) Trong trường hợp có các cấu tạo mỏ dầu, khí tự nhiên hoặc cấu tạo mỏ khác hoặc tài nguyên khoáng sản khác nằm vắt ngang đường phân định, hai bên ký kết thông qua hiệp thương hữu nghị để đạt được thỏa thuận về việc khai thác hữu hiệu nhất các cấu tạo hoặc khoáng sản nói trên cũng như việc phân chia công bằng lợi ích thu được từ việc khai thác.

Nhìn chung, sau khi Việt Nam và các nước hoàn thành quá trình phân định tại một số khu vực chồng lấn thì tình hình an ninh, trật tự trong vùng biển đó đã được duy trì. Điều đó cho thấy, các nước cần đẩy nhanh tiến trình đàm phán để tiếp tục phân định nốt các khu vực chồng lấn trên Biển Đông nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định trên biển.

RELATED ARTICLES

Tin mới