Thursday, April 18, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaXu hướng an ninh biển ở khu vực Biển Đông: Cạnh tranh...

Xu hướng an ninh biển ở khu vực Biển Đông: Cạnh tranh gia tăng trên các lĩnh vực

Xu hướng trong an ninh biển ở khu vực trong những năm vừa qua, bao gồm cả chủ quyền lãnh thổ ở các nhóm đảo, quyền khai thác các tài nguyên trên biển ở vùng nước và đáy biển và tự do hàng hải có nhiều diễn biến phức tạp. Cuộc cạnh tranh trên từng vấn đề trên có thể tăng thêm sự bất ổn cho khu vực, hoặc thậm chí dẫn đến xung đột vũ trang. Tuy nhiên, cơ hội tăng cường hợp tác về các vấn đề an ninh vẫn tồn tại.

Rất nhiều quốc gia, trong khu vực và trên thế giới, có lợi ích an ninh biển ở khu vực Biển Đông. Những lợi ích này bao gồm các yêu sách chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo và các bãi đá san hô, yêu sách đối với những đặc quyền phát triển các tài nguyên biển, tự do hàng hải trên biển cả và hậu quả của các hoạt động hiện đại hóa quân sự đang diễn ra ở khu vực. Cuộc cạnh tranh đối với bất kỳ hoặc tất cả các lợi ích trên có thể ảnh hưởng sự ổn định của khu vực. Tuy nhiên, từ khoảng năm 2006, vấn đề an ninh biển quan trọng ở Biển Đông là sự cạnh tranh đối với các yêu sách, áp dụng và thực thi các quyền trên biển đối với các vùng nước này.

Về yêu sách đối với các đảo, đá  và bãi san hô

Lĩnh vực đầu tiên mà an ninh biển bao gồm đó là các yêu sách chủ quyền đối với các đảo và các bãi đá ngầm như các rạn san hô. Ở Biển Đông, có hai tranh chấp khác nhau liên quan đến chủ quyền lãnh thổ. Đầu tiên là tranh chấp song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam về chủ quyền của  quần đảo Hoàng Sa, nơi Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng trái phép từ năm 1974. Tranh chấp thứ hai là tranh chấp đa phương về quần đảo Trường Sa, nơi bao gồm khoảng 230 đảo và bãi đá, chủ yếu là các đảo nhỏ, các hòn đảo rất nhỏ và các bãi đá san hô. Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan đều yêu sách “chủ quyền không thể tranh cãi” ở trên những đảo trên. Philippines yêu sách chủ quyền của 53 đảo, trong khi Malaysia yêu sách 12 đảo. Việt Nam hiện nay chiếm giữ 27 đảo, nhiều nhất trong số các bên yêu sách. Philippines chiếm 8 đảo, Trung Quốc 7, Malaysia 5, Đài Loan 1 đảo. Đảo đầu tiên được phía Đài Loan chiếm năm 1956 khi quân Quốc dân đảng từ Đài Loan đồn trú vĩnh viễn đảo Ba Bình (Itu Aba), đảo lớn nhất trong số các đảo tranh chấp. Các quốc gia yêu sách khác mãi đến đầu những năm 1970 mới bắt đầu hiện diện liên tục ở các đảo này. Trung Quốc bắt đầu thiết lập sự hiện diện cơ học vào tháng 1 năm 1988 khi sử dụng vũ lực tấn công trái phép và sát hại 74 chiến sỹ quân đội của Việt Nam. Đảo đất gần đây nhất được Malaysia và Việt Nam nắm giữ năm 1998 và 1999. Trung Quốc không chiếm một đảo tranh chấp nào từ cuối năm 1994 khi nước này chiếm được đảo Vành Khăn.

Yêu sách đối với quyền và quyền tài phán

Lợi ích an ninh biển thứ hai liên quan đến các yêu sách đối với các quyền trên biển, đặc biệt là các yêu sách đối với vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa. Các quyền trên biển bao gồm các vấn đề không về chủ quyền mà về quyền tài phán. Các quyền trên biển chỉ bị tranh chấp trên một phần của Biển Đông, một vùng biển trải rộng từ cửa sông Chân Trâu (Pearl River) ở Trung Quốc đến đỉnh của đảo Natuna của Indonesia. Nói chung, vùng đặc quyền kinh tế mà Trung Quốc yêu sách từ bờ biển của nước này, bao gồm tỉnh Quảng Đông và đảo Hải Nam, hầu hết là không bị tranh chấp. Tuy nhiên, phần phía Nam của biển này thì gây ra tranh cãi lớn giữa các nước có yêu sách đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như Indonesia.
Các quốc gia khác nhau biện minh yêu sách đối với quyền trên biển của mình theo các cách khác nhau. Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Brunei khẳng định quyền trên biển của mình từ bờ biển của họ. Indonesia yêu sách quyền trên biển của mình dựa trên đảo Natuna. Tuy nhiên, Trung Quốc, dựa trên quyền trên biển của mình đối với các yêu sách chủ quyền đối với nhóm đảo còn đang tranh chấp, như Trường Sa, thêm vào bờ biển của đại lục Trung Quốc. Tuy nhiên, hầu hết (chứ không phải tất cả) các đảo ở quần đảo Trường Sa sẽ không được coi là đảo theo Điều 121(3) của Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển (UNCLOS) và do đó không thể coi như là căn cứ để một quốc gia yêu sách đòi vùng đặc quyền kinh tế hoặc là thềm lục địa mở rộng. Theo đó, các nhà quan sát coi yêu sách vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc như là sự bành trướng, bởi nó bao gồm một phần rộng lớn hơn về quyền trên biển so với các quốc gia ven biển khác và cũng coi yêu sách đó là không hợp pháp vì phần yêu sách dường như dựa trên các hình thái đất không đủ tiêu chuẩn được coi là đảo theo Điều 121(3). Thêm vào đó, yêu sách “đường 9 đoạn” xuất hiện trên bản đồ khu vực của Trung Quốc còn tạo ra sự mập mờ lớn hơn.

Vấn đề tự do hàng hải

Khía cạnh thứ ba của an ninh biển bao gồm tự do hàng hải, gồm có an ninh của các tuyến đường vận tải biển chạy qua những vùng nước này. Một vài các tuyến đường tấp nập nhất trên thế giới chạy qua Biển Đông. Tự do hàng hải ảnh hưởng đến lợi ích của không chỉ các quốc gia yêu sách chủ quyền hoặc quyền trên biển như nói ở trên mà của tất các các quốc gia tham gia quá trình vận tải biển, bao gồm cả Mỹ. Các cuộc đối đầu bao gồm các chủ thể thương mại và các cơ quan thực thi pháp luật biển dân sự Trung Quốc từ năm 2009 đến 2011 gây ra các quan ngại về tự do hàng hải ở các vùng biển này. Thêm nữa, Trung Quốc (cùng với các cường quốc đang lên về hàng hải như Brazil và Ấn Độ) tiếp tục duy trì quan điểm rằng quyền bờ biển có thể hạn chế các hoạt động quân sự của nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế, mặc dù hầu hết các quốc gia khác không đồng tình với điều này. Mặc dù từ trước tới nay Trung Quốc đã không cố gắng áp dụng sự viện dẫn này trong cuộc tranh giành quyền trên biển ở Biển Đông, nhưng nước này có thể làm như vậy trong tương lai. Đến nay, các nỗ lực của Trung Quốc nhằm thực hiện các sự hạn chế về tự do hàng hải đã xuất hiện ở trong vùng đặc quyền kinh tế ngoài khơi nước này.

Hiện đại hóa quân đội

Lợi ích thứ tư về an ninh biển liên quan đến hậu quả của quá trình hiện đại hóa hải quân của các quốc gia đang phát triển trong khu vực. Các tranh chấp ở Biển Đông tạo ra động lực để các quốc gia này thúc đẩy năng lực và sự hiện diện hải quân của nước mình, điều đó quay trở lại có thể tăng khả năng xung đột vũ trang có thể xảy ra. Thêm vào đó, khi các quốc gia duyên hải tăng cường phụ thuộc vào thương mại trên biển và các nguồn tài nguyên biển, lợi ích biển của họ cũng tăng lên. Trong đó, Việt Nam có ý định tăng cường tỉ lệ mà kinh tế biển có thể đóng góp cho tổng sản phẩm quốc nội (GDP) từ 48% năm 2005 đến 55% năm 2020. Giống như vậy, phần lớn thương mại của Trung Quốc, đặc biệt là ngành cung cấp năng lượng, được thực hiện trên biển. Để bảo vệ các lợi ích mới này, cũng như bảo vệ các yêu sách chủ quyền và các yêu sách khác, các quốc gia duyên hải rất tích cực hiện đại hóa hải quân và các lực lượng vũ trang khác. Những sự thay đổi kéo theo trong cán cân cân bằng lực lượng – và trong sự phát triển của các khẩu đại bác với tầm bắn xa hơn và sức chịu đựng dẻo dai hơn – có thể trở nên ngày càng cạnh tranh và gây bất ổn hơn.

Cạnh tranh các lợi ích biển khác nhau có thể tăng tính bất ổn của khu vực. Trong bốn khía cạnh trên, tranh chấp quyền chủ quyền lãnh thổ và quyền trên biển có thể dễ leo thang thành việc sử dụng quân sự nhất. Hai vụ va chạm hải quân quan trọng xảy ra giữa Việt Nam và Trung Quốc, một diễn ra vào năm 1974 đối với nhóm đảo Crescent ở Hoàng Sa và một vào năm 1988 đối với Bãi đá Johnson ở quần đảo Trường Sa. Khi cuộc cạnh tranh quyền trên biển tăng lên, các cuộc va chạm vũ trang giữa các lực lượng hải quân của các quốc gia yêu sách cũng tăng lên; các cuộc va chạm như vậy sẽ tăng tính bấn ổn và đặt ra nhiều vấn đề về tự do hàng hải ở các vùng biển này đối với tất cả các quốc gia tham gia giao thông trên biển.

Cuộc cạnh tranh ngày càng tăng về các quyền trên biển

Xung đột về quyền chủ quyền của các hòn đảo và bãi đá san hô là một đặc trưng lâu dài của an ninh biển ở Biển Đông. Tuy nhiên, căng thẳng khu vực từ năm 2006 liên quan chủ yếu đến các yêu sách cạnh tranh đối với quyền trên biển và quyền tài phán đối với tài nguyên. Các chủ thể quan trọng trong cuộc tranh giành này bao gồm các nhà ngoại giao, các chủ thể thương mại như ngư dân cá và các công ty dầu mỏ và các cơ quan thực thi pháp luật biển dân sự quốc gia. Sức mạnh quân sự và các lực lượng hải quân đã đóng vai trò thứ hai, vì cuộc tranh giành quyền trên biển vẫn chưa bị quân sự hóa.
Tất cả các quốc gia đều đang tích cực tìm cách định hình quan điểm của công chúng và quốc tế. Giới truyền thông, dù có phải là thuộc về Nhà nước hay không, đều đóng vai trò quan trọng trong quá trình này. Vì những lý do này, các báo cáo riêng lẻ về các sự kiện rất khó để xác minh. Thêm vào đó, không phải tất cả các cuộc đối đầu giữa các quốc gia yêu sách đều được ghi lại, điều này khiến rất khó để lần theo sự thay đổi trong hành vi các nước thời gian qua. Mặc dù Việt Nam và Philippines dường như đã tăng cường đưa tin các sự kiện ở Biển Đông, Trung Quốc vẫn không làm vậy. Các cuộc đối đầu liên quan đến tàu thuyền Trung Quốc, đặc biệt là ngư dân Trung Quốc, hầu như không bao giờ được giới truyền thông Trung Quốc đưa tin hay chuyển tải, có lẽ là do chính phủ nước này muốn tránh các lời chỉ trích rằng chính quyền không làm hết sức để bảo vệ công dân của mình.
Về khía cạnh ngoại giao, các tranh chấp ngoại giao cũng làm gia tăng căng thẳng về quyền trên biển ở Biển Đông. Từ giữa những năm 2000, Việt Nam tăng cường các nỗ lực phát triển ngành công nghiệp dầu khí ngoài khơi khi hợp tác với các công ty dầu nước ngoài. Giữa năm 2006 và 2007, Trung Quốc đáp trả bằng cách đưa ra 18 phán đối ngoại giao đối với các công ty dầu nước ngoài liên quan đến các dự án khai thác và phát triển này. Hầu hết các sự kiện này thách thức tính hợp pháp của các dự án khai thác của Việt Nam. Ví dụ, năm 2006, công ty dầu quốc gia Ấn Độ, Công ty Dầu Khí tự nhiên Videsh (ONGC), ký một hợp đồng chia sẻ sản xuất với Petro Vietnam ở các phân khu ở vịnh Phú Khánh. Trung Quốc lên án dự án của ONGC thực hiện trong khu vực tranh chấp ở Biển Đông và do đó là bất hợp pháp. Lời cáo buộc của Trung Quốc cho rằng chỉ có các quốc gia nguyên đơn mới có thể tham gia các hoạt động phát triển như vậy. Tháng 7 năm 2008, khi Việt Nam tiếp tục các nỗ lực phát triển của mình, các báo cáo cho thấy rằng Trung Quốc đã bắt đầu uy hiếp trực tiếp các quốc gia dầu nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Về đánh cá, ngư dân đóng vai trò trung tâm trong việc đòi các yêu sách các quyền trên biển trên Biển Đông. Các vùng nước này được coi là khu vực đánh cá của tất cả các quốc gia ven biển, và rất nhiều trong các khu vực đánh cá truyền thông này bị chống lấn lên nhau. Theo đó, các ngư dân thường xuyên hoạt động trong các vùng nước tranh chấp thông qua các yêu sách của quốc gia mình đối với các quyền trên biển. Ví dụ, các ngư dân Trung Quốc hoạt động ở khu vực phía Nam Biển Đông gần Việt Nam và Indonesia, trong khi các tàu lớn của Việt Nam và Philippines thì lại hoạt động ở phần phía Bắc gần quần đảo Hoàng Sa. Trong suốt thập kỷ qua, Trung Quốc đã tăng cường khả năng theo dõi đánh cá ở các vùng nước còn tranh chấp và để tăng cường luật đánh cá trong nước của mình. Cơ quan quan trọng của Trung Quốc chịu trách nhiệm về nhiệm vụ này là Cục Quản lý Nghề cá Khu vực Biển Nam (SSR FA B, nanhaiqu yuzhengju), là một bộ phận của Cục Quản lý Nghề cá dưới Bộ Nông nghiệp. Thêm vào đó, để theo sát ngành công nghiệp nghề cá của Trung Quốc ở Biển Đông, SSRFAB có hai mục tiêu ảnh hưởng đến các tranh chấp về các quyền trên biển. Thứ nhất, tàu lớn SSRFAB đi theo hộ tống tàu cá của Trung Quốc khi chúng hoạt động trong vùng biển tranh chấp. Các tàu hộ tống này cung cấp hỗ trợ cho tàu đánh cá, nhưng chỉ tập huấn về quyền tài phán của Trung Quốc ở các vùng biển này (từ đó mà ủng hộ các yêu sách các quyền trên biển của Trung Quốc) và bảo vệ ngư dân Trung Quốc khi họ bị tàu lớn của các nước khác thách thức. Thứ hai, SSRFAB nỗ lực ngăn chặn các tàu nước ngoài hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế mà Trung Quốc yêu sách bằng việc lên tàu và điều tra các tàu lớn này, thu tiền phạt và xung công các dụng cụ đánh cá và thiết bị cũng như trục xuất các tàu thuyền ra khỏi vùng biển mà Trung Quốc yêu sách.

Về dầu khí, những căng thẳng tương tự ảnh hưởng đến hoạt động khai thác của các công ty dầu mỏ ở trong vùng nước tranh chấp. Như đã được nói đến bên trên, sự phát triển của ngành dầu khí ngoài khơi của Việt Nam bắt đầu khơi lên sự phản đối và ít nhất là một vài đe dọa từ phía Trung Quốc chống lại các công ty dầu nước ngoài.

Về khía cạnh quân sự, hầu hết các cuộc đối đầu giữa các quốc gia yêu sách đều liên quan đến các chủ thể thương mại và các cơ quan thực thi pháp luật biển dân sự. Ngược lại, lực lượng quân sự đóng vai trò gián tiếp và vị trí thứ hai trong cuộc tranh giành các quyền trên biển ở Biển Đông, cơ bản như một điều nhắc nhở quan trọng rằng sức mạnh ngày càng lớn của Trung Quốc có thể được sử dụng trong tranh chấp. Các nhân tố quan trọng của khía cạnh quân sự trong các căng thẳng gần đây là việc hiện đại hóa hải quân một cách vững chắc của Trung Quốc và việc trưng bày sức mạnh quân sự ngày càng lớn của Trung Quốc thông qua các chuyến hải trình giám sát và các cuộc tập trận.
Mặc dù Trung Quốc và Việt Nam đều hiện đại hóa lực lượng hải quân của hai nước trong thập kỷ vừa qua, song các nỗ lực của Trung Quốc lại vượt rất xa Việt Nam đến một mức độ lớn lao. Trong nội bộ Hải Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN), Hạm đội Nam Hải (SSF) có căn cứ ở Trạm Giang, Quảng Đông, hiện nay đang rất kiêu hãnh vì có một số trong những tàu chiến bề mặt có khả năng tốt nhất Trung Quốc, bao gồm 5 trong số 7 tàu khu trục hiện đại mà Trung Quốc đã tự phát triển trong 10 năm qua. Bên cạnh đó, hạ tầng của SSF gần đây cũng được nâng cấp, bao gồm mở rộng căn cứ hải quân quan trọng Yulin ở Tam Á trên đảo Hải Nam. Dù căn cứ được mở rộng để phù hợp với hạm đội các tàu ngầm hiện đại đang mở rộng (bao gồm tàu ngầm tên lửa đạn đạo lớp Jin mới, hoặc SSBNs, được phát triển cuối những năm 2000), nó cũng có sân tàu mới phục vụ cho các chiến dịch trên mặt biển. Với những nhà quan sát khu vực, việc mở rộng căn cứ này biểu tượng hóa cho lực lượng hải quân ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc và sự tập trung của nước này vào việc định vị sức mạnh hải quân ở Biển Đông. Chắc chắn, nguyên nhân chính cho việc mở rộng căn cứ hải quân Yulin là để tăng cường sự răn đe hạt nhân của Trung Quốc (bằng việc coi như một căn cứ của SSBNs) và để tạo chỗ trú cho hạm đội tàu ngâm đang mở rộng (hạm đội này sẽ đóng vai trò quan trọng trong một xung đột bất kỳ với Đài Loan). Tuy nhiên, với vị trí địa lý của căn cứ ở đảo Hải Nam, tỉnh xa nhất về phía Nam của Trung Quốc giữ phần phía bắc của Biển Đông, việc mở rộng trên cũng thể hiện khả năng mới rằng Trung Quốc có thể đứng vững trong các tranh chấp Biển Đông và tiềm năng thậm chí còn triển khai nhiều lực lượng hơn nữa ở khu vực trong tương lai.

Không những vậy, phạm vi và nội dung của các cuộc diễn tập của PLAN biểu hiện sức mạnh hải quân đang lớn mạnh của Trung Quốc ở khu vực. PLAN tăng số lượng các cuộc diễn tập do các lực lượng đặc nhiệm có vài tàu chiến hoạt động cùng nhau, và số lượng các cuộc diễn tập ở Biển Đông, bao gồm cả các vùng nước tranh chấp.

RELATED ARTICLES

Tin mới