Tuesday, April 23, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaGạc Ma-88: Thế giới giải mật hồ sơ...

Gạc Ma-88: Thế giới giải mật hồ sơ…

Theo đánh giá của các chuyên gia đưa ra, vào thời điểm đó, Liên bang Xô viết đang lâm vào tình trạng hỗn loạn.

Chúng ta đã nắm được hành động xâm lược dã man và tàn bạo của Trung Quốc trong trận chiến ở đảo Gạc Ma và những hành động bảo vệ chủ quyền biển đảo của quân dân Việt Nam trong “Chiến dịch Chủ quyền 88” (CQ-88).

Trung Quốc bất ngờ trước sự mạnh mẽ, cứng rắn của Việt Nam

Sau này, một báo cáo giải mật năm 2015 của Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã nhận xét rằng, Việt Nam đã không hề sợ trước sức mạnh của Trung Quốc. Việc huy động cả không quân và tên lửa bờ đối hải đã phát tín hiệu rằng, Hà Nội sẽ bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa bằng bất kỳ giá nào.

Tài liệu CIA soạn thảo ngày 08/8/1988 cho biết, Bắc Kinh quyết định tấn công đánh chiếm Trường Sa vào mùa xuân năm 1988 vì nhận thấy rằng sự chú ý của quốc tế đang hướng về tìm kiếm giải pháp cho vấn đề Campuchia, đồng thời Trung Quốc muốn tìm cách khẳng định chủ quyền, trước khi ASEAN xích lại Việt Nam.

Cục tình báo trung ương Mỹ nhận định, Bắc Kinh đã tìm cách chuẩn bị dư luận bằng cách định hướng cho truyền thông đẩy mạnh chỉ trích Hà Nội gây căng thẳng bằng việc chiếm các đảo tại Trường Sa và đại diện ngoại giao Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc luôn tìm cách củng cố quan điểm này.

Trước hết, Bắc Kinh tìm cách cô lập Việt Nam và phòng ngừa phản ứng từ các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng tìm cách thuyết phục Philippines, Malaysia và Đài Loan rằng Trung Quốc chỉ nhắm vào một mình Việt Nam, chứ không phải bất kỳ quốc gia nào khác.

CIA nhận định, cuộc chiến xâm lược Trường Sa năm 1988 của Trung Quốc đối với Việt Nam và những bất đồng dai dẳng trên toàn bộ các lĩnh vực giữa hai bên có thể dẫn tới các đụng độ quân sự khác trong tương lai.

Việc Trung Quốc chiếm các đảo đá gần nơi Việt Nam đóng quân cho thấy khả năng lâu dài là Bắc Kinh sẽ chọn giải pháp quân sự. Khi cả hai bên đều có hiện diện quân đội ở trên các đảo, khả năng xảy ra đụng độ vũ trang là khá cao.

Báo cáo của CIA cũng nhận xét rằng, trận đánh năm 1988 đã không làm cho Hà Nội sợ hãi, họ đối phó với thách thức của Bắc Kinh trên hai mặt trận ngoại giao và quân sự, bằng cách tố cáo với cộng đồng quốc tế về hành động xâm lược của Trung Quốc, đồng thời không ngừng củng cố các tiền đồn ở Trường Sa.

Hà Nội một mặt mô tả Bắc Kinh là kẻ xâm lược hiếu chiến và thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền, nhưng mặt khác cũng kêu gọi Trung Quốc quay lại bàn đàm phán để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, đồng thời thúc đẩy thảo luận với các nước khác trong khu vực như Malaysia và Philippines.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tích cực chuẩn bị cho khả năng chiến sự tiếp tục nổ ra với việc nâng cấp khả năng phòng thủ, đặt chỉ huy sở ở Vịnh Cam Ranh, điều chiến đấu cơ tới Phan Rang và tăng cường tuần tra biển…Việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu phát tín hiệu rằng, Hà Nội sẽ không lùi bước trước Trung Quốc trong cuộc chiến bảo vệ Trường Sa.

Các chuyên gia của CIA dự đoán, hai bên rất khó có thể đạt được thỏa thuận, Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường khả năng phòng thủ biển và có thể sẽ tìm cách dựng thêm một số công trình phòng thủ ngoài biển để chặn bước tiến của hải quân Trung Quốc, đồng thời gia tăng áp lực ngoại giao.

Báo cáo của CIA cho rằng, sau sự kiện 14/3/1988, Bắc Kinh có lẽ đã không lường trước được phản ứng dữ dội của Hà Nội. Trung Quốc tính toán rằng, Việt Nam có lực lượng lục quân rất mạnh nhưng hải quân mỏng yếu, xung đột tháng 3/1988 sẽ khiến Việt Nam phải chùn bước.

Do đó, phản ứng cứng rắn của Việt Nam ngay sau sự kiện Gạc Ma, trong bối cảnh lực lượng hải quân Liên Xô án binh bất động, có thể đã làm Bắc Kinh ngạc nhiên và bối rối.

Liên Xô với cuộc chiến chống xâm lược của Việt Nam 1979

Với cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979, Liên Xô đã thực hiện cam kết tôn trọng Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện, ngay lập tức lên tiếng răn đe Bắc Kinh sẽ bị tấn công nếu nước này không chịu rút quân và khẩn trương cử đoàn cố vấn quân sự cấp cao sang Hà Nội để hợp sức đối phó với Trung Quốc.

Hải quân Liên Xô đã điều động toàn bộ lực lượng Hạm đội Thái Bình Dương, kể cả các tàu ngầm hạt nhân, tới bảo vệ bờ biển Việt Nam, ngăn chặn biên đội tàu sân bay Mỹ và gần 300 tàu của các hạm đội hải quân Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông.

Song song với đó, Liên Xô cũng rút lực lượng ở các nước cộng hòa phía châu Âu về nước, triển khai một cuộc tập trận siêu lớn ở phía nam, huy động tới 600.000 quân và hàng ngàn máy bay, đồng thời chuẩn bị sẵn các kịch bản tấn công khu vực biên giới phía bắc Trung Quốc, để ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược của Bắc Kinh.

Vậy nhưng 9 năm sau, khi Việt Nam bị Trung Quốc tấn công cướp đảo, Liên Xô lại hầu như không có động tĩnh gì. Đâu là lý do đích thực? Một số chuyên gia quân sự và các nhà khoa học lịch sử uy tín đương đại của Nga đã tập trung tìm lời đáp cho câu hỏi này.

Câu hỏi này đã phần nào được làm sáng tỏ tại Hội thảo Bàn tròn trực tuyến mang tên “Vai trò của Liên Xô trong các cuộc xung đột tại Việt Nam cuối thập niên 70, 80 thế kỷ XX”, do báo Gazeta.ru tổ chức ngày 11/3/2014, nhân kỷ niệm 26 năm Trung Quốc tấn công xâm chiếm các đảo của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa.

Theo đánh giá của các chuyên gia đưa ra tại cuộc hội thảo này, vào thời điểm đó, Liên bang Xô viết đang lâm vào tình trạng hỗn loạn, Việt Nam không phải là đối tượng mà Liên Xô “phải bảo vệ bằng mọi giá”.

Liên Xô thời Gorbachev

Trong bản tham luận ngày 11/3/2014 (đã đăng trên tạp chí “Những trang lịch sử”), Giáo sư-Tiến sĩ Vladimir Kolotov, nhà Việt Nam học của Trường Đại học tổng hợp quốc gia Saint Petersburg đã tiết lộ ý kiến của ông V.I. Dashichev (khi đó là Chủ tịch Ủy ban Cố vấn Khoa học của Bộ ngoại giao Liên Xô) về vấn đề Liên Xô ở đâu trong quan hệ Việt-Trung.

Trong một bài phân tích viết ngày 01/01/1987 gửi Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Andrei Gromyko, ông Dashichev đã nói rằng, việc ủng hộ Việt Nam sẽ khiến Liên Xô “không chỉ khó khăn trong quan hệ với phương Tây, mà còn chồng chất trở ngại trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc”.

Giáo sư Kolotov nhận định, những kiến nghị này diễn ra chỉ 1 năm trước khi Trung Quốc đánh chiếm Trường Sa cho thấy, các vấn đề của Việt Nam không còn là lĩnh vực ưu tiên trong đường lối đối ngoại của Liên Xô, trong thời kỳ lãnh đạo của M.Gorbachev (nắm quyền từ 1985).

Tiến sĩ Dmitry Mosyakov, lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á, Australia và châu Đại dương của Viện Đông phương học (Viện Hàn lâm Khoa học Nga) thẳng thắn phát biểu, nếu như Liên Xô có vai trò cực lớn trong cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam hồi năm 1979, thì năm 1988, ngược lại hoàn toàn.

Trước đây, Liên Xô vẫn áp dụng đường lối đối ngoại khá đơn giản, phân biệt khá rõ giữa “người quen” với “kẻ lạ”, “người tốt” với “kẻ xấu”. Nhưng tất cả đã bắt đầu thay đổi khi M.Gorbachev lên nắm quyền từ năm 1985 và bắt đầu công cuộc “đổi mới từ nóc”, tức là bắt đầu cải tổ chính trị, trước khi cải tổ kinh tế.

Với cuộc cải tổ kinh tế (perestroika) lộn ngược, cải cách chính trị (glasnost) hỗn loạn, nhà lãnh đạo Liên Xô Gorbachev – sau này đã bị gọi đúng tên là “Kẻ phản bội Chủ nghĩa Cộng sản” – đã lái Liên bang Xô viết đi chệch con đường Chủ nghĩa Xã hội, dẫn tới sự khủng hoảng toàn diện của khối Xã hội Chủ nghĩa trong giai đoạn đó.

Và sau đó đã nổ ra cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc ở khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam tháng, dẫn đến trận chiến đẫm máu ở Gạc Ma, tháng 3/1988 – đúng thời điểm Moscow và Bắc Kinh bắt đầu đàm phán về vấn đề biên giới và bình thường hóa quan hệ.

Đánh giá một cách công bằng là không phải nhân dân Liên bang Xô viết từ chối giúp đỡ nhân dân Việt Nam, mà đó chỉ là một nhóm nhỏ trong những nhà lãnh đạo Liên Xô, đứng đầu là Gorbachev.

RELATED ARTICLES

Tin mới