Thursday, April 18, 2024
Trang chủQuân sựHồi ức chiến tranh Vị Xuyên

Hồi ức chiến tranh Vị Xuyên

trích đăng cuốn “Hồi ức chiến tranh Vị Xuyên” của Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy, trong đó đưa ra 4 lý do khiến Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi Việt Nam vào ngày 5/3/1979.

Năm 2020, nhân kỷ niệm 41 năm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc (17/2/1979- 17/2/2020), Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông đã cho ra mắt bạn đọc cuốn sách “Hồi ức chiến tranh Vị Xuyên” của Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy, nguyên Quyền Tư lệnh Quân khu 2, Trưởng ban Liên lạc toàn quốc cựu chiến binh Mặt trận Vị Xuyên (cuốn sách ra mắt ngày 5/3/2020).

Là người đã trực tiếp tham gia chỉ huy chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở nhiều mặt trận, trong đó có Vị Xuyên, Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy đã ghi lại một số sự kiện của cuộc chiến này qua “Hồi ức chiến tranh Vị Xuyên”.

Tác giả mang đến cho bạn đọc một góc nhìn chân thực, khách quan, cụ thể, sinh động về cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ, khốc liệt và anh dũng của quân dân ta. Đặc biệt, tác giả đã cung cấp cho người đọc những tư liệu rất quý, những sự kiện lịch sử tuy đã qua nhưng vẫn còn nóng bỏng, mang hơi thở của chiến trường.

Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy sinh 1931, nhập ngũ năm 1948, là một người đã trực tiếp chiến đấu qua các cuộc chiến tranh anh dũng của dân tộc: Chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc của Tổ quốc.

Trong cuộc chiến tranh bảo vệ phía Bắc Tổ quốc, từ đầu năm 1985 đến cuối năm 1989, Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy đã trực tiếp chỉ huy chiến đấu ở chiến trường Vị Xuyên – Hà Tuyên, ông là Tham mưu trưởng mặt trận (ông cũng đồng thời làm Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân khu 2). Hiện nay, Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy là Trưởng ban Liên lạc toàn quốc Cựu chiến binh Mặt trận Vị Xuyên – Hà Tuyên.

Xin trích đăng một số đoạn trong cuốn sách này nhân kỷ niệm 43 năm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc (17/2/1979- 17/2/2022)

Trung Quốc đem hơn 60 vạn quân xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979

Sau nhiều lần gây ra các vụ khiêu khích quân sự quy mô nhỏ, 5 giờ sáng ngày 17/2/ 1979, Trung Quốc đã huy động hơn 60 vạn quân với 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn với 550 xe tăng, xe bọc thép, 4 sư đoàn và trung đoàn pháo binh với hàng nghìn khẩu pháo các loại mở cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên toàn tuyến phía Bắc Việt Nam, từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh) với chiều dài hơn 1.400km, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ nhất (thời nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) bao gồm các tỉnh: Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam.

Cuộc tấn công xâm lược Việt Nam của Trung Quốc thoạt đầu đẩy Việt Nam vào thế “lưỡng đầu thọ địch” và phải trải qua một thử thách vô cùng khó khăn do bị bao vây cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây, có thể so sánh với thế “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước khi mới giành được độc lập năm 1945- 1946. Cuộc tiến công xâm lược Việt Nam của quân đội Trung Quốc cũng làm cho thế giới sửng sốt. Từ chỗ là đồng minh trong “chiến tranh lạnh”, nhà cầm quyền Trung Quốc đã coi Việt Nam là kẻ thù … Những người bình thường trên thế giới không ai nghĩ rằng, một dân tộc như Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh với thương tích đầy mình và có biết bao nhiêu công việc phải làm để xây dựng lại đất nước lại đi khiêu khích rồi xâm lược một nước khác, lại là nước lớn hơn, thậm chí là đồng minh trong hai cuộc kháng chiến trước đó, như một số người Trung Quốc cho đến nay vẫn nói rằng, cuộc chiến tranh chống Việt Nam của họ chỉ là một “cuộc phản công tự vệ”.

Để huy động và động viên nhân dân cả nước chống quân Trung Quốc xâm lược, ngày 5/3/1979, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định tổng động viên lực lượng bảo vệ Tổ quốc; cùng ngày Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã ký lệnh “Tổng động viên” cả nước. Đây có thể nói là lời “Hịch non sông đất nước” thời đại Hồ Chí Minh.

… Trong lúc chiến sự trên toàn tuyến biên giới phía Bắc đang diễn ra, ngày 5/3/1979, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành kế hoạch “Dạy cho Việt Nam một bài học” và ra lệnh rút quân về nước.

Ngày 7/3/1979, Việt Nam tuyên bố cho phép Trung Quốc rút quân mà không truy kích.

Sau này có ý kiến phân tích nguyên nhân Trung Quốc tuyên bố rút quân vào 5/3/1979 như sau:

Một là do bị quân và dân Việt Nam đánh cho thất bại nặng nè nên Trung Quốc buộc phải rút quân. Bên cạnh đó, dư luận quốc tế kịch liệt lên án Trung Quốc trong cuộc chiến tranh này. Chính phủ nhiều nước, nhiều tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể quần chúng trên thế giới đã tổ chức biểu tình, ra Tuyên bố với khẩu hiệu “Không được đụng đến Việt Nam”, đòi “nhà cầm quyền Trung Quốc rút ngay quân đội ra khỏi lãnh thổ Việt Nam”…

Hai là, Trung Quốc phát hiện Việt Nam đã điều động Quân đoàn 2 và Quân đoàn 3 từ mặt trận Campuchia về tham gia chiến đấu để bảo vệ phía Bắc Việt Nam. Ai cũng biết rằng, quân đội nhân dân Việt Nam vừa trải qua một giai đoạn dài trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Đây là những quân đoàn thiện chiến đã từng đánh bại những đơn vị sừng sỏ nhất của đế quốc Mỹ và quân ngụy tay sai. Nếu quân Trung Quốc tiếp tục tiến sâu vào đất Việt Nam sẽ bị tiêu diệt lớn, thiệt hại nặng nên buộc Trung Quốc phải rút quân.

Ba là, Trung Quốc thấy Liên Xô thật sự giúp Việt Nam, sẵn sàng tham chiến cùng nhân dân Việt Nam chiến đấu để đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mặt khác nếu cần liên Xô sẽ mở mặt trận đánh vào biên giới Bắc Trung Quốc giáp với Mông Cổ.

Bốn là, Trung Quốc chỉ giới hạn cuộc chiến tranh xâm lược như vậy để thử thách ý chí của quân dân Việt Nam và thử xem hiệu quả của Hiệp ước Việt Nam – Liên Xô vừa được ký cuối năm 1978 như thế nào. Nói cách khác, Trung Quốc coi cuộc tiến công Việt Nam là phép thử với quan hệ Xô – Việt và lôi kéo Mỹ cùng chống lại Liên Xô. Đây cũng là lý do sâu xa của cuộc chiến tranh phía Bắc từ tháng 2/1979.

Trước hành động tuyên bố rút quân của Trung Quốc, để tỏ rõ thiện chí hòa bình, mong muốn khôi phục quan hệ hữu nghị giữa hai nước, Trung ương đảng, Chính phủ Việt Nam ra lệnh cho các lực lượng vũ trang và nhân dân vùng biên giới dừng chiến dịch phản công để tạo điều kiện cho quân Trung Quốc rút về nước. Đến ngày 18/3/1979, về cơ bản Trung Quốc hoàn thành việc rút quân khỏi Việt Nam (thực tế còn rải rác thêm các ngày sau đó).

… Cuộc chiến đấu bảo vệ phía Bắc của Việt Nam diễn ra trong vòng một tháng (từ 17/2 đến 18/3/1979) nhưng có ý nghĩa thắng lợi rất to lớn, thể hiện trên một số khía cạnh cơ bản: Quân và dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân xâm lược, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng, xe thiết giáp, phá hủy 115 khẩu pháo và súng cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí đồ dùng quân sự …buộc đối phương sớm rút quân, qua đó làm thất bại hoàn toàn ý đồ của các nhà cầm quyền Trung Quốc muốn áp đặt lợi ích nước lớn lên bán đảo Đông Dương.

Điều đáng chú ý là, sau khi tuyên bố rút quân, Trung Quốc vẫn duy trì 12 sư đoàn và hàng chục trung đoàn độc lập áp sát biên giới Việt Nam, thường xuyên gây tình trạng căng thẳng, tiếp tục lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở mọi quy mô, thực hiện kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt.

Cuộc chiến tranh do Trung Quốc phát động đã làm tổn thương mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa nhân dân Việt Nam và Trung Quốc. Đó là một “khúc quanh lịch sử” trong quan hệ Việt Nam- Trung Quốc. Những đau khổ mà nhân dân hai nước phải gánh chịu trong chiến tranh là bài học xương máu phải được nhận thức đầy đủ.

T.P

RELATED ARTICLES

Tin mới