Tuesday, April 16, 2024
Trang chủBiển nóngSự kiệnCái giá phải trả của chiến dịch “tự do khí đốt” ở...

Cái giá phải trả của chiến dịch “tự do khí đốt” ở châu Âu

Đối với các nhà vận động vì môi trường, việc thúc đẩy chiến dịch “tự do khí đốt” ở châu Âu có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khí hậu vì khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) có lượng khí thải metan cao.

Một cơ sở sản xuất khí tự nhiên hóa lỏng (NLG).

Việc khai thác thủy lực đã bị cấm ở hầu hết các châu Âu trong thời gian qua, tuy nhiên khi EU cắt giảm nhập khẩu khí đốt Nga và chuyển sang sử dụng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Mỹ, nhiều người đang đặt câu hỏi sẽ có bao nhiêu nhiên liệu khai thác bằng phương pháp này được nhập khẩu vào châu Âu.

Hậu quả khôn lường với môi trường

Khai thác thủy lực là kỹ thuật khai thác mỏ bằng cách dùng áp suất chất lỏng, làm nứt các tầng đá dưới sâu mặt đất. Qua đó khai mở những khoáng chất (dầu mỏ, khí đốt) vốn bị nén chặt trong lòng đất. Tuy vậy công nghệ này vẫn còn nhiều tranh cãi.

Phần lớn các nước EU đã cấm phương pháp khai thác thủy lực vì cho rằng cách khai thác này có thể gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước ngầm, cạn kiệt nguồn nước ngọt, gây động đất và tác động xấu đến sức khỏe con người.

“Chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể chuyển sang một con đường khác, nhưng chúng ta vẫn đang đi về phía vực thẳm”, ông Andy Gheorghiu – một nhà vận động chống việc khai thác thủy lực nhận định sau khi Tổng thống Mỹ Joe Biden và Chủ tịch châu Âu Ursula von der Leyen công bố một thỏa thuận khí đốt nhằm giảm sự phụ thuộc của EU vào năng lượng Nga.

Theo thỏa thuận mới, sẽ có thêm 15 tỷ m3 khí LNG – phần lớn có nguồn gốc từ các giếng khai thác thủy lực ở Mỹ – được đưa tới bờ biển châu Âu từ phía bên kia Đại Tây Dương trong năm nay.

Các nhà hoạt động lo ngại rằng, việc thay thế khí đốt của Nga bằng LNG sẽ không giúp đảm bảo an ninh năng lượng, trái lại còn đe dọa các mục tiêu khí hậu dài hạn của châu Âu.

Ông Murray Worthy – người đứng đầu chiến dịch khí đốt tại tổ chức phi chính phủ Global Witness cho rằng: “Thỏa thuận này đưa EU và Mỹ vào con đường sai lầm và nguy hiểm bằng cách xây dựng nhanh chóng những cơ sở hạ tầng mới để nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch vào châu Âu. Việc xây dựng các nhà ga nhập khẩu LNG trái với chủ trương từ bỏ nhiên liệu hóa thạch mà EU theo đuổi bây lâu nay”.

Ngoài ra, cũng có những lo ngại về tác động tức thời đối với khí hậu do việc sử dụng LNG được tạo ra từ các mỏ đá phiến nằm sâu dưới lòng đất.

Các nhà vận động vì môi trường cho rằng, việc thúc đẩy chiến dịch “tự do khí đốt” ở châu Âu có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khí hậu vì LNG có lượng khí thải metan cao. Ông Gheorghiu lưu ý, khả năng gây hiệu ứng nóng lên trên toàn cầu của khí metan cao gấp 85 lần khí CO2 trong khoảng thời gian 20 năm, thế nhưng lại có rất ít nỗ lực được thực hiện để giải quyết hậu quả của việc phát thải khí metan ở cả 2 bên bờ Đại Tây Dương.

Để giảm bớt các nguy cơ đối với môi trường, thỏa thuận Mỹ-EU được công bố ngày 24/3 đã thận trọng kết hợp giữa mục tiêu đa dạng hóa nguồn cung khí đốt với mục tiêu chống biến đổi khí hậu. Các quan chức châu Âu cho biết, thỏa thuận này nhằm giảm khí gây hiệu ứng nhà kính của tất cả cơ sở hạ tầng liên quan đến LNG, trong đó có việc thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, giảm rò rỉ khí metan và xây dựng cơ sở hạ tầng để sản xuất năng lượng hydro sạch”. Tuy nhiên giới chuyên gia nhận xét điều này vẫn chưa đủ.

Đe dọa mục tiêu hạn chế nhiệt độ Trái Đất ở mức 1,5 độ C

Ở phía bên kia Đại Tây Dương, nhà phân tích Gheorghiu cho rằng, những quy định thiếu nhất quán đã khiến một số bang của Mỹ trở thành “miền Tây hoang dã” cho việc khai thác khí đốt dựa trên phương pháp bơm thủy lực. Chẳng hạn, tại bang Texas lượng khí metan phát thải ra rất khó kiểm soát bởi chúng bị rò rỉ từ hàng chục giếng khai thác ở lưu vực Permian, trải dài đến bang New Mexico.

Các nhà nghiên cứu Amanda Levin và Christina Swanson thuộc Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên Thiên nhiên có trụ sở tại Mỹ kết luận rằng, các nỗ lực của Mỹ nhằm tăng cường sản xuất và xuất khẩu LNG có thể xóa sổ bất cứ cơ hội nào nhằm hạn chế hạn chế sự tăng nhiệt độ Trái Đất ở mức 1,5 độ C vào cuối thế kỷ 21.

Họ lưu ý, sự mở rộng xuất khẩu LNG một cách nhanh chóng sẽ khiến quá trình chuyển đổi sang nguồn năng lượng carbon thấp bị đình trệ và việc sử dụng nguồn năng lượng phi carbon thậm chí còn khó khăn hơn.

Quá trình khai thác, vận chuyển, hóa lỏng và tái chuyển đổi LNG thành khí đốt sẽ làm gia tăng phát thải lượng khí gây hiệu ứng nhà kính. Ước tính, sẽ có thêm khoảng 130 triệu đến 213 triệu tấn khí gây hiệu ứng nhà kính bị phát thải nếu Mỹ tăng gấp 3 lần việc xuất khẩu khí LNG từ năm 2020 đến 2030. Điều này tương đương với việc đưa thêm 45 triệu ô tô chạy bằng nhiên liệu hóa thạch trên đường mỗi năm.

LNG khó thay thế khí đốt của Nga

Mặc dù Bộ trưởng Kinh tế Đức Robert Habeck đã đến Qatar và Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất trong tháng 3 này để cố gắng tìm thêm các thỏa thuận cung cấp khí đốt, nhưng giới phân tích cho rằng, nguồn cung hạn chế và nhu cầu khí đốt trên toàn cầu tăng cao khiến châu Âu khó có thể từ bỏ khí đốt Nga.

Mỹ đã có những khách hàng truyền thống mua lượng LNG hiện có của họ, do vậy có thể không còn nhiều sản lượng dư thừa để đáp ứng nhu cầu của châu Âu. Chưa kể, việc xây dựng cơ sở hạ tâng cần thiết như các nhà ga nhập khẩu LNG phải mất từ 2 đến 3 năm. Do đó mục tiêu của EU cắt giảm 2/3 lượng khí đốt nhập khẩu từ Nga trong năm nay là điều khó thực hiện.

Đối với các nhà vận động chống biến đổi khí hậu, năng lượng nhiên liệu hóa thạch là động lực chính dẫn đến chiến tranh vì thế họ cho rằng chúng cần được loại bỏ dần và thay thế bằng năng lượng tái tạo.

Chuyên gia Murray Worthy của Global Witness nhấn mạnh: “Đầu tư nhiều hơn và phụ thuộc nhiều hơn vào năng lượng hóa thạch giống như việc khích lệ và làm hài lòng những người hiếu chiến vốn luôn cho rằng đây là một hệ thống năng lượng có lợi cho họ. Nếu châu Âu thực sự muốn loại bỏ khí đốt của Nga, lựa chọn duy nhất mà họ có là loại bỏ hoàn toàn việc sử dụng khí đốt”.

“Chúng ta có cơ hội lịch sử và có nghĩa vụ lựa chọn phương thức phù hợp để thay đổi cách chúng ta sản xuất và tiêu thụ năng lượng. Nhưng giải pháp mà các chính phủ xuyên Đại Tây Dương của chúng tôi đưa ra không khác gì việc duy trì cách thức vốn có”, nhà phân tích Gheorghiu đánh giá.

T.P

RELATED ARTICLES

Tin mới