Wednesday, July 9, 2025
Trang chủGóc khuất Trung HoaPhân tích chính sách "chia để trị" của Bắc Kinh ở Biển...

Phân tích chính sách “chia để trị” của Bắc Kinh ở Biển Đông

Trong quan hệ với các nước ASEAN, lâu nay Trung Quốc luôn thi hành chính sách phân hoá, lôi kéo, chia rẽ để phá vỡ sự đoàn kết thống nhất trong ASEAN trên các vấn đề quốc tế và khu vực, nhất là trên vấn đề Biển Đông nhằm phục vụ mục đích lâu dài của Bắc Kinh là khống chế, kiểm soát để tiến tới thôn tính, độc chiếm Biển Đông.

Trên thực tế, Trung Quốc đã lôi kéo được Campuchia đứng ra ủng hộ quan điểm của Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông bất chấp lợi ích của các nước ven Biển Đông khác trong ASEAN. Tại hầu hết các hội nghị của ASEAN, Campuchia luôn phản đối việc lên án, chỉ trích các hành động hung hăng của Bắc Kinh nhằm vào các nước ven Biển Đông mà mới đây nhất là tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN (AMM) lần thứ 54 tại Lào. Thậm chí, khi Campuchia làm chủ nhà của ASEAN năm 2012, Phnom Penh đã tiếp tay cho Bắc Kinh trên vấn đề Biển Đông khiến lần đầu tiên trong lịch sử không ra được tuyên bố của hội nghị chỉ vì không đạt được nhất trí về nội dung Biển Đông trong văn kiện.

Chính sách phân hoá, lôi kéo, chia rẽ ASEAN trên vấn đề Biển Đông của Trung Quốc được giới học giả gọi một cách đơn giản là chiến thuật “chia để trị”. Nội dung chiến thuật “chia để trị” của Trung Quốc là việc sử dụng các biện pháp kinh tế và ngoại giao để trừng phạt các quốc gia vi phạm các ranh giới không thành văn; và những ưu đãi về thương mại, đầu tư để dụ dỗ, mua chuộc các quốc gia nhỏ hơn và yếu hơn nhằm mở rộng ảnh hưởng. Chiến thuật “chia để trị” của Bắc Kinh thường được kết hợp nhuần nhuyễn với những hành động đe doạ, cưỡng ép và tuyên truyền sai lệch về các thông tin liên quan.

Phát biểu với giới báo chí hôm 6/8/2024, nhà phân tích địa chính trị Don McLain Gill thuộc trường Đại học De La Salle ở Manila, Philippines cho rằng trên Biển Đông, “lợi ích của Trung Quốc là một Đông Nam Á bị chia rẽ”. Trước đó và tháng 5/2024, Đại sứ Philippines tại Mỹ Jose Romualdez đã viết về chiến lược chia để trị của Trung Quốc trên tờ Philippines Star. Theo đó, vị Đại sứ Philippines cho rằng “chia để trị” là “câu thần chú mới” mà Trung Quốc sử dụng để gây chia rẽ trong Philippines lẫn trên trường quốc tế. Ông Jose Romualdez cũng kêu gọi mọi người đoàn kết, bác bỏ những thông tin sai lệch mà Trung Quốc lan truyền.

Nhằm thúc đẩy chiến lược “chia để trị” đánh vào nội bộ Philippines và đánh lạc hướng dư luận, tháng 4/2024, Trung Quốc đã đưa ra tuyên bố rằng họ và Philippines đã đạt được một “mô hình mới” để giải quyết tranh chấp tại Bãi Cỏ Mây. Sau đó, cả Bộ trưởng Quốc phòng và Cố vấn An ninh Quốc gia Philippines đều bác bỏ thông tin này, khẳng định không có thỏa thuận nào được ký kết. Các quan chức Philippines cho rằng đây là một “mưu đồ chia rẽ” và nhằm mục đích làm xao nhãng dư luận trước những hành động khiêu khích của Trung Quốc ở Biển Đông. Bộ Ngoại giao Philippines đã lên án mạnh mẽ hành vi này và kêu gọi Trung Quốc chấm dứt các hoạt động gây căng thẳng.

Giáo sư Alexander L Vuving từ Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á – Thái Bình Dương Daniel K. Inouye (DKI APCSS) của Mỹ nhận định Việt Nam và Philippines là hai nước dễ bị tổn thương bởi chính sách “chia để trị” của Trung Quốc. Ông Vuving cho rằng: “Hậu quả cuộc chiến tranh trên Biển Đông là khôn lường, không đơn thuần là xung đột Việt Nam với Trung Quốc hay Philippines với Trung Quốc. Đám lửa có thể bùng lên tới mức không ai kiểm soát được”. Do đó, chiến lược được giới cầm Trung Quốc là “tằm ăn dâu”, tức là từng bước gây sức éo bắt Việt Nam và Philippines “quy phục” rồi biến thành điều gọi là “bình thường mới”, và dần dần ép các nước chấp nhận thực tế mới của Trung Quốc. Đây là một phần trong chiến lược “chia để trị” của Trung Quốc.

Chiến lược “chia để trị” được bộc lộ rõ hơn khi Trung Quốc cho máy bay uy hiếp cả Việt Nam và Philippines khi hai nước này lần đầu tiến hành diễn tập chung trên Biển Đông hôm 9/8. Cuộc diễn tập này giữa Việt Nam và Philippines được nhiều nhà quan sát trong khu vực nhận định là dấu mốc “lịch sử”. Trang Nikkei Asia của Nhật Bản đánh giá sự kiện này là “đỉnh cao” tính tới nay của thỏa thuận hợp tác hàng hải mà hai nước đã ký trong chuyến thăm Hà Nội của Tổng thống Philippines Marcos hồi đầu năm 2024.

Giới quan sát nhận định trong khi cuộc diễn tập chung đầu tiên giữa Manila và Hà Nội được coi là một bước phát triển quan trọng trong hợp tác giữa các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông và cần nhân rộng thì Trung Quốc không nhìn nhận cuộc diễn tập này một cách tích cực mà sẽ cố gắng để gây áp lực tối đa lên từng nước. Ông Julio Amador, Tổng giám đốc điều hành của công ty tư vấn Amador Research Services tại Manila cho rằng Trung Quốc sẽ kiếm cớ để cảm thấy “bị xúc phạm” trước sự hợp tác của các quốc gia ASEAN có các tuyên bố chủ quyền chồng chéo trên Biển Đông để đưa ra các hành động “trả đũa”.

Phân tích về phản ứng của Bắc Kinh trước cuộc diễn tập trên biển đầu tiên giữa Manila và Hà Nội, giới chuyên gia nhận định Trung Quốc sẽ tăng cường chiến lược “chia để trị” trong quan hệ với hai nước này. Theo đó, khi Việt Nam và Philippines xích lại gần nhau bằng cách thắt chặt các mối quan hệ để tăng cường năng lực quản lý tranh chấp trên biển và giải quyết tranh chấp trên biển song phương giữa hai nước, Trung Quốc sẽ áp dụng chiến lược “chia để trị” trong việc giải quyết mâu thuẫn với hai nước này trên Biển Đông.

Nhà phân tích chính trị Don McLain Gill từ trường Đại học De La Salle ở Manila cho rằng: “Trung Quốc muốn giải quyết song phương với từng quốc gia tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông để có thể gây áp lực tối đa lên từng nước”. “Nếu Philippines và Việt Nam đạt được thỏa thuận chung, Bắc Kinh chắc chắn sẽ phải đối phó với cả hai nước cùng lúc khi tìm cách bành trướng, khiến việc này trở nên khó khăn hơn cho chính họ. Trung Quốc được hưởng lợi từ việc thiếu các thỏa thuận giữa các nước có tuyên bố chủ quyền chồng chéo.”

Giới phân tích dự báo Bắc Kinh sẽ điều chỉnh các chính sách để phù hợp với cách tiếp cận quyết đoán của Philippines và cách tiếp cận “kín đáo” của Việt Nam nhằm phân hoá 2 nước. Cụ thể, Bắc Kinh có thể hành động quyết liệt với Philippines và mềm mỏng với Việt Nam.

Tiến sĩ Abdul Rahman Yaacob, nhà nghiên cứu của Chương trình Đông Nam Á tại Viện Lowy cho rằng: “Tôi không nghĩ các nhà hoạch định chính sách và các nhà hoạch định quốc phòng của Bắc Kinh muốn gây hấn với Việt Nam và Philippines cùng lúc vì như thế họ sẽ phải kéo dài nguồn lực của mình”. Vị tiến sĩ cũng nhận xét rằng Trung Quốc đã thành công ở một mức độ nào đó khi nỗ lực xây dựng hình ảnh Philippines như một “kẻ vô lý” trong tranh chấp Biển Đông, khiến một số quan chức ở khu vực Đông Nam Á đã bày tỏ mối quan ngại, cho rằng Manila đang liều lĩnh.

Tiến sĩ Collin Koh, chuyên gia nghiên cứu về quan hệ quốc tế từ Đại học Công nghệ Nanyang (Singapore), chia sẻ: “Trung Quốc muốn bêu tên Philippines như là một kẻ dị biệt, cùng lúc đó họ tăng cường luận điệu rằng họ đã kiểm soát tranh chấp và không để xảy ra xung đột nào với các nước khác trong Đông Nam Á,” với BBC vào cuối tháng 6/2024. Ông Koh đồng thời nhấn mạnh Trung Quốc không muốn gây xích mích không cần thiết trong mối quan hệ với các quốc gia Đông Nam Á khác, ít nhất là với Indonesia, Malaysia và Việt Nam khi đang “bận tay” với Philippines.

Giải thích cho việc Bắc Kinh “mềm mỏng” hơn với Hà Nội trên Biển Đông so với Manila, các chuyên gia cho rằng vì ở chiều ngược lại, Hà Nội âm thầm đối phó, không vạch trần “Bộ mặt thật” của Bắc Kinh như Manila. Tiến sĩ Abdul Rahman Yaacob giải thích: “Chiến lược của Việt Nam là không để cho các tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông ảnh hưởng đến mối quan hệ lành mạnh khác với người hàng xóm phương Bắc”. Đây là điều dễ hiểu vì Việt Nam đã có lịch sử đối phó với sự bành trướng từ phương Bắc.

Giáo sư Carl Thayer thuộc Đại học New South Wales (Úc) thì cho rằng không giống như Philippines, Việt Nam đã tránh triển khai hải quân để đối đầu với tàu Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Thay vào đó, Hà Nội đã triển khai tàu tuần duyên và tàu dân sự để giám sát các hoạt động của Trung Quốc, kiểm soát chặt chẽ việc đưa tin của truyền thông Việt Nam về các sự cố trên biển và theo đuổi các kênh ngoại giao với Bắc Kinh về tranh chấp Biển Đông.

Bắc Kinh cũng đang lo ngại về việc Nhật Bản tăng cường mối quan hệ quân sự với Việt Nam và Philippines; luôn tìm cách chống lại các hoạt động như vậy và tìm cách phân hoá chia rẽ các nước trong khu vực, theo các nhà quan sát. Trong chuyến thăm Hà Nội của Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Minoru Kihara đầu tháng 8/2024, Nhật Bản đã cam kết tăng cường quan hệ an ninh, quốc phòng với Việt Nam. Tokyo cho biết sẽ cung cấp hai xe vận tải tiếp tế cho Hà Nội như một phần của thỏa thuận về thiết bị quốc phòng và chuyển giao công nghệ.

Tiến sĩ Collin Koh cho rằng việc Nhật Bản cung cấp hàng hóa liên quan đến an ninh cho Việt Nam không có gì đáng ngạc nhiên, vì trước đây họ đã cung cấp viện trợ cho lực lượng bảo vệ bờ biển. Nhưng ông Koh nhấn mạnh đây là một “bước đi đáng chú ý” vì thỏa thuận gần đây do Bộ Quốc phòng Nhật Bản chỉ đạo chứ không phải do Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) chỉ đạo như trước đây. Tiến sĩ Collin Koh nhận định: “Tôi tin rằng đây chỉ là bước đi thử nghiệm. Việc chuyển giao mới nhất này có khả năng nâng lên thành việc chuyển giao hoặc bán các thiết bị tinh vi hơn trong tương lai, chẳng hạn như radar” vì Nhật Bản có quan hệ kinh tế chặt chẽ và mối quan hệ an ninh ngày càng tăng với Việt Nam. Tiến sĩ Koh cho rằng Trung Quốc sẽ “cảnh giác” với diễn biến này. Ông Koh đánh giá: “Tôi nghĩ Bắc Kinh sẽ đi đến giả định dài hạn rằng một ngày nào đó trong tương lai Tokyo sẽ chuyển giao hoặc bán vũ khí gây chết người cho Việt Nam”.

Greg Poling, giám đốc chương trình Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế có trụ sở ở Washington DC (Mỹ), cho biết thỏa thuận gần đây giữa Nhật Bản và Việt Nam có thể là dấu hiệu cho thấy mối quan hệ an ninh ngày càng sâu sắc hơn. Về cuộc tập trận hàng hải chung gần đây của Nhật Bản với Philippines, ông Poling cho rằng đây “chỉ là diễn biến mới nhất trong một loạt các hoạt động trong mối quan hệ an ninh (của họ)”.

Các chuyên gia cũng nhận định vai trò an ninh của Tokyo đối với Đông Nam Á ngày càng có tầm ảnh hưởng hơn, gây trở ngại cho nỗ lực của Trung Quốc trong việc thống trị khu vực này. Vì Nhật Bản là nước không có yêu sách trên Biển Đông, sự can thiệp của Tokyo, theo một số nhà quan sát, là xu hướng đáng lo ngại đối với Trung Quốc vì Bắc Kinh luôn tìm cách ngăn cản “các thế lực bên ngoài” can thiệp vào các tranh chấp ở Biển Đông.

Trong bối cảnh Trung Quốc đẩy mạnh chiến thuật “chia để trị” ở khu vực và trên vấn đề Biển Đông, Việt Nam và Philippines nên làm gì để đối phó? Theo ý kiến của nhà phân tích Don McLain Gill, “Cả Manila và Hà Nội phải nỗ lực xây dựng một bộ quy tắc ứng xử cơ bản song phương để đưa ra sự hiểu biết chung về biên giới tranh chấp của họ. Điều này sẽ giúp cung cấp một lộ trình để giải quyết các hoạt động như xâm nhập từ phía Trung Quốc, đồng thời giảm bớt các điểm xung đột giữa hai nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền chồng chéo”.

Nhà phân tích Don McLain Gill nhấn mạnh điều quan trọng là hai bên Philippines và Việt Nam phải tăng cường phối hợp, đồng thời tôn trọng các vấn đề nhạy cảm đối với bên kia nhằm tối đa hóa lợi ích mà không xảy ra xung đột trong tương lai. Ông Gill cho rằng: “Một khi các nước này phát triển mối quan hệ và lòng tin mạnh mẽ hơn với nhau, sẽ khó khăn hơn cho Trung Quốc theo đuổi chiến thuật chia để trị”. Tiến sĩ Lori Forman thuộc Trung tâm nghiên cứu an ninh Châu A-Thái Bình Dương Daniel K. Inouye (DKI APCSS) cho rằng Philippines và Việt Nam nên củng cố hợp tác nhằm bảo vệ lợi ích chung trước những “hoạt động cưỡng ép” của Trung Quốc ở Biển Đông. Tiến sĩ Lori Forman nhấn mạnh: “Cho dù tồn tại những khác biệt về ngôn ngữ và hệ thống chính trị, hai quốc gia có chung những lợi ích cốt lõi, tạo nền tảng vững chắc cho sự hợp tác”. Tóm lại, “chia để trị” là chiến thuật mà Trung Quốc đang tìm cách thúc đẩy để chia rẽ, phân hoá các nước ven Biển Đông với nhau, đánh vào nội bộ của ASEAN và ngăn cản các nước ven Biển Đông tăng cường hợp tác an ninh, quốc phòng với các nước ngoài khu vực nhằm thực hiện ý đồ thôn tính, độc chiếm Biển Đông. Để hoá giải điều này, các nước ven Biển Đông cần gạt bỏ sự khác biệt sang một bên, tăng cường hợp tác với nhau, chủ động thúc đẩy đoàn kết trong ASEAN và nỗ lực tăng cường quan hệ với các nước ngoài khu vực, tạo lợi ích đan xen của các bên ở Biển Đông.

RELATED ARTICLES

Tin mới