Sau Lễ nhậm chức hôm 20/1/2025, Tổng thống Mỹ Donald Trump đang nhanh chóng tìm cách định hướng lại chính sách đối ngoại trong nhiệm kỳ 2, chuyển trọng tâm chiến lược của Mỹ từ châu Âu và Trung Đông sang Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương – khu vực ngày càng quan trọng trong việc định hình trật tự toàn cầu.
Tổng thống Trump đã tiếp đón các Thủ tướng Ấn Độ và Nhật Bản, đồng thời khởi xướng các nỗ lực chấm dứt chiến tranh Ukraine – một cuộc xung đột đã chuyển hướng sự chú ý của Mỹ khỏi các thách thức cấp bách ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, khiến Trung Quốc nhanh chóng lấp đầy khoảng trống.

Trong ngày đầu nhậm chức, Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio đã tổ chức cuộc họp với các ngoại trưởng Nhóm Bộ Tứ – một liên minh chiến lược của các nền dân chủ hàng đầu Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mà Trump đã hồi sinh trong nhiệm kỳ đầu của mình với tuyên bố tại Diễn đàn cấp cao APEC tại Đà Nẵng, Việt Nam vào năm 2017 sau một thập kỷ “đóng băng”. Trong khi đó, Mỹ có kế hoạch rút dần khỏi châu Âu. Ngày 12/2/2025 vừa qua tại Brussels, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Pete Hegseth đã cảnh báo châu Âu rằng “Mỹ sẽ không còn dung thứ cho một mối quan hệ mất cân bằng khi quá phụ thuộc vào Mỹ và châu Âu phải chịu trách nhiệm về an ninh của chính mình”. Trong khi đó, tại Hội nghị An ninh Munich, Phó Tổng thống Mỹ JD Vance tiếp lời cảnh báo của Hegseth khi nhấn mạnh rằng “châu Âu cần thay đổi trước khi 100.000 binh sĩ Mỹ bắt đầu rút đi”.
Quan hệ đối tác chiến lược Mỹ-Ấn là nền tảng trong chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” của Washington từ nhiệm kỳ đầu của Trump – một tầm nhìn ban đầu được cố Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe hình thành cho một “trật tự tự do dựa trên luật lệ”. “Quan hệ đối tác không giới hạn Nga-Trung” phát triển trong nhiệm kỳ của Tổng thống Joe Biden chỉ làm tăng thêm sứ mệnh chiến lược của Mỹ trong việc tạo ra một liên minh “mềm” với một cường quốc hạt nhân khác là Ấn Độ. Trong bối cảnh đó, cuộc gặp thượng đỉnh Trump – Modi tại Washington ngày 12/2/2025 đã nhấn mạnh cam kết của cả hai nhà lãnh đạo trong việc khôi phục mối quan hệ Mỹ – Ấn.
Các đời tổng thống Mỹ kể từ thời Bill Clinton đã để lại mối quan hệ song phương với Ấn Độ mạnh mẽ hơn những gì họ thừa hưởng. Tuy nhiên, dưới thời Joe Biden, động lực đã chững lại khi những khác biệt nảy sinh, bao gồm cả sự miễn cưỡng của New Delhi trong việc chọn phe trong cuộc chiến Ukraine cũng như chính sách của Mỹ đối với các nước láng giềng của Ấn Độ, bao gồm Bangladesh, Myanmar và Pakistan. Kết quả chuyến thăm Nhà Trắng của Thủ tướng Ấn Độ Modi cho thấy sự khởi đầu tốt đẹp, hướng tới việc xây dựng lại lòng tin. Trump và Modi – duy trì mối quan hệ cá nhân nồng ấm mà họ đã phát triển trong nhiệm kỳ đầu – đã trao nhau cái ôm thắm thiết và thể hiện sự nhất trí cao tại cuộc họp báo chung. Đáng chú ý, họ đã tránh bất hòa về các vấn đề nóng của Trump như thương mại và nhập cư.
Giống như cuộc gặp với Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Ishiba hôm 7/2, Trump đã ca ngợi mối quan hệ song phương mạnh mẽ, đồng thời yêu cầu Modi thực hiện thương mại “công bằng” và cân bằng hơn, bao gồm cả việc Ấn Độ tăng cường nhập khẩu dầu và vũ khí của Mỹ. Theo phong cách quen thuộc, kết hợp giữa lời khen công khai và chiến thuật đàm phán cứng rắn, Trump ca ngợi Modi là “nhà đàm phán giỏi và cứng rắn hơn tôi nhiều”, giống như cách ông ca ngợi Ishiba là “một người rất mạnh mẽ, tôi ước gì ông ấy không mạnh mẽ đến vậy”.
Theo kế hoạch, Tổng thống Trump sẽ cùng với các Thủ tướng Nhật Bản và Australia đến Ấn Độ vào mùa Thu này để tham dự Hội nghị thượng đỉnh Bộ tứ. Trước khi đến đó, Trump hy vọng các nhà đàm phán sẽ đạt được tiến triển đáng kể về thỏa thuận thương mại Mỹ – Ấn Độ mà Modi đã cam kết tại Washington. Chiến lược này phản ánh cách tiếp cận trước đây của Trump trong việc tận dụng thuế quan để đảm bảo một hiệp định thương mại với Nhật Bản vào năm 2019.
Khi Mỹ chuyển trọng tâm sang Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, việc tăng cường quan hệ với Ấn Độ và Nhật Bản (hai đối thủ chiến lược của Trung Quốc) sẽ ngày càng trở nên quan trọng. Cán cân quyền lực trong khu vực này sẽ phần lớn được định hình bởi những diễn biến tại Đông Á và Ấn Độ Dương. Nhật Bản – nơi có hơn 80 cơ sở quân sự của Mỹ và nhiều binh sĩ Mỹ đồn trú tại đây hơn bất kỳ đồng minh nào khác – sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ Đài Loan. Nếu Trung Quốc sáp nhập thành công Đài Loan sẽ chấm dứt sự thống trị toàn cầu của Mỹ. Trong khi đó, Ấn Độ – vốn bị kẹt trong thế bế tắc quân sự dai dẳng với Trung Quốc – đã tích cực thách thức quyền lực và năng lực của Bắc Kinh theo cách mà không quốc gia nào khác làm được trong thế kỷ này.
Thực ra từ năm 2011, Tổng thống Barack Obama khi đó đã công bố chiến lược “xoay trục sang châu Á” nhưng chủ yếu vẫn mang tính hùng biện, thiếu các sáng kiến chiến lược thực chất. Đến khi Trump nhậm chức Tổng thống đầu năm 2017, ông đã thay thế sự xoay trục mang tính biểu tượng của Obama bằng một chiến lược toàn diện hướng tới một “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” vào cuối năm 2017. Trump cũng đã định nghĩa lại cơ bản chính sách của Mỹ đối với Bắc Kinh, đảo ngược cách tiếp cận kéo dài 4 thập kỷ của Mỹ là hỗ trợ sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc bằng cách coi quốc gia này là “đối thủ chính và mối đe dọa chiến lược”. Biden duy trì cách tiếp cận này, tiếp tục thúc đẩy chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, trong đó Bộ tứ là trụ cột chính, đồng thời thừa nhận Trung Quốc là “đối thủ chính của Mỹ đang muốn thống trị thế giới”. Tuy nhiên, sự can dự của chính quyền Biden trong các cuộc xung đột ở Ukraine và Trung Đông đã để lại ít không gian cho sự chuyển hướng thực sự sang Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Chính quyền Trump nhiệm kỳ 2 đang ưu tiên giải quyết các xung đột Ukraine và Trung Đông để tập trung vào Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nơi quyền tối cao toàn cầu của Mỹ đang bị đe dọa. Việc chấm dứt can dự vào các cuộc xung đột sẽ giải phóng các nguồn lực quân sự cho Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, đặc biệt là từ châu Âu. Giáo sư Alejandro Rayran Cortés thuộc Đại học Externado của Colombia nhấn mạnh sự thay đổi trong thiện chí đàm phán với Nga của Mỹ thể hiện chiến lược tách Moskva khỏi Bắc Kinh của Nhà Trắng. Biện pháp này phản ánh ý định của Washington đối với việc tập trung nguồn lực để cạnh tranh với Trung Quốc và cắt giảm các cam kết tài chính khác.
Giới phân tích nhận định, chiến lược của Mỹ từ lâu là tập trung vào việc gây chia rẽ giữa Moskva và Bắc Kinh – một chiến lược giúp phương Tây giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh mà không cần đối đầu quân sự trực tiếp. Tuy nhiên, những chính sách của Mỹ dưới thời Biden đã “vô tình” trở thành “cầu nối gắn kết Nga-Trung”. Việc chấm dứt chiến tranh Ukraine có thể tạo cơ hội cho Washington tách Moskva khỏi Bắc Kinh hoặc làm suy yếu quan hệ đối tác Nga – Trung để cô lập Trung Quốc. Quan trọng hơn, điều đó sẽ cho phép Mỹ tập trung ngăn chặn thách thức từ một Trung Quốc đang trỗi dậy trên toàn cầu, với sự hỗ trợ từ các đồng minh như Nhật Bản hay các đối tác chiến lược như Ấn Độ – quốc gia đang trỗi dậy như một cường quốc độc lập phù hợp với thái độ của chính quyền Trump.
Sự chuyển hướng trọng tâm chiến lược của Tổng thống Mỹ Donald Trump từ châu Âu sang khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, tập trung nhằm vào Trung Quốc đem lại những tác động tích cực tới cục diện Biển Đông thể hiện trên một số điểm sau:
Thứ nhất, chiến lược này của Washington giúp xoá đi mối lo ngại về việc chính quyền Trump nhiệm kỳ 2 có thể “bỏ rơi” các đồng minh ở châu Á và Biển Đông. Hiện khi chính quyền Trump 2.0 chưa có những biện pháp cụ thể ở khu vực này khiến Bắc Kinh đang ráo riết tận dụng để “lộng hành”, việc Bắc Kinh liên tiếp tiến hành tập trận bắn đạn thật ở Vịnh Bắc Bộ, xung quanh Đài Loan và ở Biển Tasman trong 1 tuần cuối tháng 2 vừa qua, đồng thời tiếp tục các hoạt động gây hấn với Philippines ở Biển Đông là một minh chứng. Tuy nhiên, một khi Mỹ tập trung nhiều hơn vào khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong thời gian tới sẽ khiến Trung Quốc phải lo ứng phó chứ không còn rảnh tay để bắt nạt các nước láng giềng ven Biển Đông.
Thứ hai, với việc chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhóm Bộ tứ sẽ được củng cố tăng cường (như nêu trên) để bao vây Trung Quốc. Ngoài ra, Mỹ có thể sử dụng các thoả thuận song phương với các đồng minh khu vực như Australia, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand và Philippines để ngăn chặn, kiềm chế Trung Quốc. Giới chuyên gia nhận định Mỹ sẽ tìm mọi cách để kiểm soát không để Trung Quốc vượt qua chuỗi đảo thứ nhất đe doạ vai trò, vị thế độc tôn của Mỹ ở khu vực. Nói cách khác Mỹ sẽ tăng cường hoạt động của hải quân và không quân Mỹ ở Biển Đông, bao gồm FONOP, tuần tra và tập trận chung để quốc tế hoá vấn đề Biển Đông.
Thứ ba, Philippines – một đồng minh lâu năm của Mỹ ở khu vực – được coi là nhân tố quan trọng để Mỹ triển khai chiến lược ở khu vực, và như vậy Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ – Philippines năm 1951 sẽ tiếp tục được củng cố, đồng thời quân đội Mỹ sẽ tích cực sử dụng quyền tiếp cận các căn cứ quân sự của Philippines để khống chế Trung Quốc. Điều này không chỉ là chỗ dựa cho Philippines và hỗ trợ các nước ven Biển Đông khác trong cuộc đối đầu với Trung Quốc ở Biển Đông.
Mặt khác, Mỹ sẽ khuyến khích Philippines tự nâng cao năng lực quốc phòng với sự hỗ trợ của Mỹ, kể cả việc trang bị hệ thống tên lửa tầm trung Typhon như các quan chức Philippines đã đề cập. Rõ ràng điều này tạo đối trọng lớn đối với Trung Quốc ở Biển Đông và Eo biển Đài Loan.
Thứ tư, chuyển hướng vào khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, Washington sẽ đề cao tinh thần thượng tôn pháp luât, điều mà Bắc Kinh đang tìm cách thoái thác để phá vỡ nguyên trạng. Điều này là có lợi cho các nước nhỏ ven Biển Đông để đối phó với Trung Quốc. Có thể nhận thấy rõ, chính dưới thời nhiệm kỳ đầu của Trump, Washington đã lần đầu tiên đưa ra quan điểm pháp lý chính thức trên vấn đề Biển Đông qua Công hàm gửi lên Liên hợp quốc thang 6/2020 và Tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ tháng 7/2020.
Việc làm này của Mỹ đã kéo theo nhiều đồng minh khác như Australia, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Nhật Bản, New Zealand gửi công hàm lên Liên hợp quốc thể hiện rõ quan điểm pháp lý trên các vấn đề Biển Đông, trong đó bác bỏ yêu sách “đường chin đoạn” của Trung Quốc. Với chiến lược chống Trung Quốc ở khu vực, bên cạnh việc, tiếp tục cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, gia tăng sức mạnh quân sự của Mỹ ở khu vực, chính quyền Trump nhiệm kỳ 2 sẽ tiếp tục đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, kể cả qua các hoạt động FONOP. Vi phạm luật pháp quốc tế là điểm yếu của Bắc Kinh mà các nước ven Biển Đông có thể đồng hành cùng Mỹ để thách thức Trung Quốc. Tóm lại, với việc chính quyền Trump nhiệm kỳ 2 chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nhằm chống lại Trung Quốc sẽ tác động tích cực tới cục diện Biển Đông và góp phần duy trì trật tự dựa trên pháp luật, bảo đảm tự do, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông.