Trong năm 2024, cạnh tranh địa chính trị và các tranh chấp liên quan đến Biển Đông tiếp tục là chủ đề “nóng” trong các vấn đề an ninh chính tại châu Á – Thái Bình Dương. Các quốc gia có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông vẫn có nhiều hành động nhằm củng cố lợi ích cả hiện tại và tương lai.
ASEAN đã có nhiều nỗ lực để duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông, nhưng phải đối mặt với nhiều thách thức và trở ngại do các hoạt động “bảo vệ lợi ích hợp pháp” của Trung Quốc ở vùng biển này. Các nước ngoài khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Australia… tăng cường hiện diện quân sự và xây dựng các cơ chế an ninh đa phương nhằm kiềm chế Trung Quốc. Tuy có thời điểm xảy ra các sự kiện rất “nóng” trên biển, trong đó chủ yếu là giữa hai nước Trung Quốc và Philippines, nhưng nhìn tổng thể, diễn biến tình hình an ninh Biển Đông năm 2024 vẫn nằm trong tầm kiểm soát.

Bước sang năm 2025, thế giới có nhiều diễn biến rất phức tạp và nhanh chóng, khó lường. Do đó, đã có nhiều dự báo về tình hình an ninh Biển Đông và khu vực được đưa ra. Phần lớn các dự báo đó đều thống nhất cho rằng, trong năm 2025, an ninh Biển Đông vẫn sôi động và vẫn “nóng”, nhưng khó bùng nổ xung đột, bởi xuất phát từ những yếu tố “thúc đẩy” và “kìm hãm” sau đây.
Các yếu tố gây “nóng” về an ninh ở Biển Đông trong năm 2025
Trước hết là yếu tố tranh chấp trong vấn đề chủ quyền ở Biển Đông. Đây là vấn đề cơ bản, cốt lõi nhất, được các bên liên quan sẽ thúc đẩy dưới nhiều cách thức hoạt động khác nhau nhằm củng cố yêu sách chủ quyền của mình. Trong đó, đáng chú ý nhất vẫn là yêu sách “đường chín khúc” của Trung Quốc được Bắc Kinh nhiều lần nhắc tới và đưa vào nhóm “lợi ích cốt lõi” của quốc gia, cần phải giành lấy. Thậm chí, nhiệm vụ, mục tiêu thu hồi hòn đảo Đài Loan hay giành quyền kiểm soát hoàn toàn Biển Đông đã được xác định là những vấn đề “thiêng liêng của dân tộc”, nhất thiết và phải cố gắng đạt được, làm “món quà” có giá trị “cao quý nhất” để chào mừng kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước CHND Trung Hoa. Thời gian từ nay đến đó không nhiều, trong khi việc sử dụng giải pháp quân sự để đạt mục tiêu trên là không khả thi. Vì vậy, Trung Quốc sẽ tiếp tục sử dụng chiến thuật “gặm nhấm” để lấn chiếm Biển Đông, nhưng sẽ có sự “tăng tốc” hơn. Theo đó, về mặt pháp lý, Bắc Kinh sẽ có sự “biến tấu” trong giọng điệu, sẽ diễn đạt khác đi về mặt hình thức đối với yêu sách “đường chín khúc”, nhưng bản chất thì không thay đổi, vẫn nhằm thực hiện tham vọng “chủ quyền” này. Họ sẽ tiếp tục đưa ra các “nội luật” hay các văn bản tương tự “có tính pháp lý” theo kiểu của Trung Quốc để làm cơ sở xử lý các hoạt động của các nước khác có tranh chấp trong vùng biển thuộc phạm vi “đường chín khúc”, qua đó khẳng định “chủ quyền” của mình. Việc Trung Quốc ngày 10/11/2024 vừa qua, công bố đường cơ sở lãnh hải xung quanh bãi cạn Scarborough mà họ gọi là Hoàng Nham, là ví dụ mới nhất thể hiện cách làm trên. Bãi cạn Scarborough và vùng biển xung quanh là khu vực thuộc chủ quyền hợp pháp của Philippines chiểu theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) và phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực quốc tế về Luật Biển (PCA) năm 2016. Thế nhưng, Bắc Kinh lại cho rằng, việc thiết lập đường cơ sở tại đây là “bước đi rất tự nhiên” và hoàn toàn “phù hợp” với luật pháp quốc tế để tăng cường quản lý Biển Đông. Hành động này không chỉ làm gia tăng căng thẳng quan hệ giữa Trung Quốc với các nước trong khu vực, đặc biệt là với Philippines, mà còn thể hiện sự coi thường luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982 của Trung Quốc; đồng thời cho thấy Bắc Kinh ngày càng rốt ráo và quyết liệt hơn trong ý đồ “độc chiếm” Biển Đông. Ngoài ra, trong năm 2025, ngoài việc tiếp tục sử dụng “chiến thuật vùng xám” trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, Trung Quốc sẽ chú trọng hơn việc sử dụng “con bài” kinh tế và chính trị để tác động, gây ảnh hưởng hoặc gây sức ép đến các nước có tranh chấp ở Biển Đông; tiếp tục tìm cách chia rẽ ASEAN trong xử lý, giải quyết vấn đề Biển Đông. Đáng chú ý, Bắc Kinh sẽ gia tăng triển khai đưa các công nghệ tiên tiến, hiện đại vào trong các hoạt động khẳng định chủ quyền và tranh chấp chủ quyền với các nước, kể cả trong các hoạt động của “chiến thuật vùng xám”, nhất là ứng dụng thành tựu của trí tuệ nhân tạo (AI), cùng các yếu tố phi truyền thống khác. Vì thế, sức mạnh răn đe và sức ép trên biển của họ với đối phương có thể sẽ lớn hơn và đa dạng hơn. Sức mạnh răn đe và sức ép đó không chỉ diễn ra trên mặt biển, mà nhiều khả năng sẽ còn mở rộng tới cả các hoạt động ở dưới nước và đáy biển, trên không trung và không gian mạng. Do đó, các “sự cố” như từng đã xảy ra ở bãi Cỏ Mây, Scarborough, Sa Bin trong năm 2024, hay các hoạt động xâm nhập bất hợp pháp vào vùng thềm lục địa thuộc chủ quyền của nước khác, nhưng lại nằm trong cái gọi là “đường chín khúc” có thể sẽ được thực hiện với tần suất dày đặc hơn trong năm nay.
Bên cạnh hoạt động của Trung Quốc, cũng phải kể đến hoạt động của Philippines. Ngoài việc đẩy mạnh các hoạt động để bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông, Chính quyền của Tổng thống Marcos cũng sẽ lấy vấn đề này làm “công cụ” chính để giành được sự tín nhiệm của cử tri, áp chế các gia tộc chính trị và đối thủ cạnh tranh trong nước, cũng như giành được sự quan tâm, ủng hộ nhiều hơn từ Mỹ. Với việc ban hành hai đạo luật mới là Đạo luật Vùng biển và Đạo luật Đường biển của quần đảo vào tháng 11/2024, Philippines chắc chắn sẽ gia tăng các hành động tại các khu vực như bãi Cỏ Mây, Sa Bin, Đá Khúc Giác và sẽ không dễ dàng từ bỏ chủ quyền ở bãi cạn Scarborough. Ngoài ra, không loại trừ khả năng Manila sẽ khởi xướng một vụ kiện khác đối với Trung Quốc về Biển Đông.
Hai là, quan hệ Mỹ – Trung và cạnh tranh ảnh hưởng giữa hai cường quốc này trong năm 2025, vẫn là yếu tố gây ra “điểm nóng” ở Biển Đông. Xét về thực chất, suy cho cùng, hiện tại cũng như tương lai, tình hình Biển Đông “nóng” hay “lạnh” chủ yếu là do sự chi phối của hai nước Trung – Mỹ, vì đây là hai quốc gia có tiềm lực mạnh, đang cạnh tranh nhau gay gắt trên nhiều lĩnh vực, địa bàn, trong đó có Biển Đông. Trung Quốc đang tìm mọi cách mở “cánh cửa” Biển Đông để “đi ra bên ngoài”, vươn lên trở thành cường quốc thế giới. Trong khi đó, Mỹ lại ra sức tìm cách “bịt” cánh cửa này lại, ngăn không để Trung Quốc đủ sức vươn ra thế giới, thách thức vai trò, vị thế “siêu cường” của Mỹ. Giá trị địa chiến lược của Biển Đông đối với Trung Quốc và Mỹ chính là nằm ở chỗ đó.
Ba là, yếu tố hoạt động kinh tế trên biển là điều khó tránh. Biển Đông là tuyến hàng hải quan trọng, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Việc các nước xung quanh Biển Đông tiến hành khai thác tài nguyên trên biển, đặc biệt là thăm dò, khai thác dầu khí và các nguồn năng lượng tiềm năng khác, sẽ rất dễ là nguồn cơn của các tranh chấp.
Bốn là, việc Trung Quốc thực hiện “chiến thuật vùng xám” trong hoạt động khẳng định, tranh chấp chủ quyền với các nước là yếu tố gây “nhức nhối” cho ổn định khu vực. Trung Quốc áp dụng chiến thuật này phục vụ cho ý đồ “độc chiếm” Biển Đông, nhưng tránh để xảy ra chiến tranh. Mỹ cũng muốn giành lợi thế trước Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng cũng không muốn chiến tranh nổ ra, bởi chiến tranh nổ ra ở khu vực, sẽ là “bi kịch” cho tất cả các bên. Vì thế, dựa trên sức mạnh của mình, những năm qua, “chiến thuật vùng xám” mà nội hàm của nó là những hoạt động nằm dưới ngưỡng chiến tranh vẫn là cách thức chính được Trung Quốc sử dụng để “thôn tính” dần Biển Đông. Chiến thuật này sẽ vẫn được Trung Quốc sử dụng, có nghĩa là các hoạt động như quấy rối tàu thuyền, xây dựng đảo nhân tạo và các hành động gây hấn theo hướng răn đe, gây sức ép với đối phương sẽ vẫn diễn ra. Những hoạt động này chẳng những gây khó khăn cho việc duy trì ổn định và trật tự trên Biển Đông, mà rất có thể làm bùng nổ xung đột nếu các bên thiếu tỉnh táo, kiềm chế, nhất là ở cấp thực thi trực tiếp.
Xem xét kỹ từng yếu tố nói trên ở từng thời điểm cụ thể khác nhau, có thể sự tác động của chúng đến tình hình an ninh Biển Đông không đủ để giới nghiên cứu khu vực lo ngại. Nhưng nếu đặt tất cả các yếu tố trên trong tổng thể bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực và nhất là sự tương tác, kết hợp của các yếu tố đó với nhau thì có thể dự báo, tình hình an ninh Biển Đông năm 2025 sẽ vẫn “nóng” chứ không “lạnh”. Còn “nóng” ở mức độ nào thì phụ thuộc vào cách thức và cường độ triển khai của các bên tạo ra yếu tố.
Các yếu tố góp phần kiềm chế bùng nổ xung đột ở Biển Đông
Tuy tình hình an ninh Biển Đông vẫn là một trong những “điểm nóng” tại khu vực, thu hút sự quan tâm của thế giới. Nhưng năm 2025, Biển Đông khó có thể bùng nổ xung đột. Lý do có khá nhiều, nhưng có thể kể đến mấy yếu tố cơ bản sau:
Trước hết là sách lược kiềm chế của tất cả các bên có liên quan. Sách lược này được thể hiện ở chỗ: 1/ Dù tất cả các bên có liên quan ở Biển Đông đều có ý đồ, chiến lược riêng của mình, nhất là chiến lược của hai nước Mỹ – Trung. Các bên đều có sự đầu tư cho quốc phòng để sẵn sàng sử dụng sức mạnh quân sự khi cần thiết. Thế nhưng, các bên cũng đều nhận thức được hậu quả nghiêm trọng nếu như xung đột quân sự xảy ra, do đó đều có sự kiềm chế. Việc Trung Quốc và Philippines đạt được “Thỏa thuận tạm thời” hồi tháng 7/2024 để “hạ nhiệt” căng thẳng ở Biển Đông có lẽ một phần cũng xuất phát từ nhận thức này. 2/ Các cơ chế đối thoại, hợp tác đã có như ASEAN, ADMM+, Đối thoại Shangri-La… dù hiệu quả vẫn còn nhiều hạn chế, nhưng sẽ tiếp tục được duy trì, góp phần làm ổn định tình hình. 3/ Các cách thức ứng xử trên Biển Đông đã có và đang được bàn thảo, như Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), hay Bộ qui tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) dù chưa phát huy hết hiệu quả, chưa hoàn thiện, nhưng vẫn là những nỗ lực nhằm giảm thiểu rủi ro. Trong cuộc họp báo bên lề kì họp “Lưỡng hội” của Trung Quốc ngày 09/3/2025, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị cho biết, vòng đọc thứ 3 của COC đã hoàn tất. Ông khẳng định: Trung Quốc sẵn sàng tăng cường đối thoại với các quốc gia ASEAN để hóa giải bất đồng, đạt được tiếng nói chung, sớm đạt được COC. Nếu Trung Quốc chân thành và thực tâm với lời hứa này, thì đây là tin tức tốt lành, sẽ làm tình hình Biển Đông ổn định hơn.
Hai là, về cân bằng lực lượng. Trung Quốc thường xuyên đổ lỗi cho Mỹ là nhân tố bên ngoài chủ yếu gây rắc rối và bất ổn ở Biển Đông. Thế nhưng, không thể phủ nhận, sự hiện diện của Mỹ và các đồng minh tại khu vực phần nào đó đã góp phần tạo ra sự cân bằng lực lượng nhất định, ngăn chặn hành động quân sự đơn phương thái quá của Trung Quốc ở Biển Đông. Thử hỏi, nếu Philippines không phải là đồng minh hiệp ước của Mỹ, không có “chiếc ô an ninh” từ Mỹ, không có sự ủng hộ của các nước đồng minh của Mỹ thì liệu Trung Quốc có để cho Manila “yên ổn”. Hơn nữa, trong bối cảnh sức ép cạnh tranh Mỹ – Trung ngày càng lớn, với quan điểm “không chọn bên”, các nước ASEAN cũng đang tăng cường năng lực quốc phòng để tự bảo vệ mình, trước khi “nhờ thiên hạ cứu”. Điều này cũng góp phần vào sự cân bằng lực lượng ở khu vực.
Ba là, về áp lực kinh tế. Thế giới ngày nay là thế giới phẳng, sự đan xen phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước, các khu vực ngày càng lớn, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ. Vì vậy, nếu xung đột xảy ra ở Biển Đông, sẽ gây tổn hại nặng nề cho kinh tế khu vực, ảnh hưởng đến lợi ích của tất cả các bên. Hiện nay, quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ với các nước ASEAN có sự phụ thuộc lẫn nhau rất lớn về kinh tế, nhất là về thương mại, đầu tư. Đây chính là yếu tố để hai bên có sự kiềm chế, tránh để xảy ra xung đột trong các vấn đề liên quan đến Biển Đông, gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế.
Bốn là, tuy là địa bàn “trọng điểm” trong cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nhưng tình hình hiện tại chưa cho phép Mỹ và Trung Quốc đẩy “nóng” vấn đề Biển Đông, từ đó có thể dẫn tới bùng nổ xung đột. Về phía Trung Quốc, sau khi ông D.Trump quay trở lại Nhà Trắng, cùng với Mexico và Canada, Trung Quốc đã “dính đòn” thuế quan đầu tiên của Mỹ giành cho các nước, và Mỹ sẽ còn tiếp tục “ra đòn” mạnh hơn thế nữa. Đương nhiên, Trung Quốc không chịu “ngồi yên” và đã có hành động đáp trả. Tại Biển Đông, do Tổng thống D.Trump chưa có một kế hoạch cụ thể nào, nên Trung Quốc ắt phải “nghe ngóng” đã, rồi mới tính đến các bước đi tiếp theo, tránh “chọc giận” và cùng lúc đối đầu với Mỹ trên nhiều lĩnh vực, mặt trận. Lúc này. Trung Quốc có làm gì ở Biển Đông cũng chủ yếu là để thăm dò phản ứng của chính quyền mới ở Mỹ, vì thế mọi hành động cũng phải có “chừng mực”. Về phía Mỹ, dù chưa có kế hoạch cụ thể ở Biển Đông, nhưng “hòa bình dựa trên sức mạnh” là phương châm chính sách đối ngoại của Chính quyền D.Trump 2.0, nên rất có thể đây là tín hiệu mà Mỹ muốn gửi đến Trung Quốc rằng, bất kỳ hành động “quá giới hạn” nào ở Biển Đông, như gây sức ép và cưỡng bức bằng sức mạnh quân sự với các đồng minh, đối tác của Mỹ ở vùng biển này, thì Bắc Kinh sẽ nhận lấy sự đáp trả mạnh hơn từ Mỹ, nhất là việc ra các “đòn” đánh thuế nặng vào các mặt hàng chủ lực của Trung Quốc. Có lẽ xuất phát từ nhiều lý do khác nhau nên đến nay, vẫn chưa xuất hiện “tín hiệu” nào cho thấy Biển Đông sẽ là ưu tiên số 1 của ông D.Trump trong năm 2025. Hiện, ông D.Trump và đội ngũ của mình đang phải tập trung xử lý các vấn đề khác bức thiết hơn như thương mại, thuế quan, nhập cư, cuộc xung đột quân sự Nga – Ucraina, các vấn đề trong nội bộ nước Mỹ… Với tình hình như vậy nên trong năm 2025, cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ở Biển Đông vẫn tiếp tục diễn ra như chính sách hiện tại của hai nước. Vùng biển này vẫn “nóng” và không loại trừ một số rủi ro có thể xảy ra, nhưng hai bên sẽ có sự kiềm chế, tránh để bùng nổ xung đột. Tóm lại, Biển Đông năm 2025 vẫn là “điểm nóng” ở khu vực với các hoạt động chính là tranh chấp chủ quyền, cạnh tranh giữa các nước, nhất là Mỹ – Trung, hoạt động “chiến thuật vùng xám” của Trung Quốc, những thách thức về pháp lý, ngoại giao… Song, khả năng xảy ra bùng nổ xung đột lớn là thấp. Tuy không bùng nổ xung đột, nhưng rủi ro và thách thức vẫn tiềm ẩn. Nguyên nhân ở đây có thể do tính toán sai lầm; sự thay đổi lãnh đạo và chính sách ở các nước lớn có thể làm thay đổi cục diện Biển Đông; sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan; sự khó đoán định của cả Trung Quốc và Mỹ… Trong bối cảnh như vậy, để duy trì hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển Đông, thì việc tăng cường đối thoại, hợp tác và tuân thủ luật pháp quốc tế là rất quan trọng đối với tất cả các bên liên quan.