Đông Nam Á có một số tuyến đường biển (SLOC) được xếp vào hàng quan trọng nhất thế giới. 45% lượng hàng hoá vận tải đường biển của thế giới đi qua Biển Đông.
Ngoài các nước Đông Nam Á, nhiều nước khác trong khu vực đều phụ thuộc lớn vào tuyến đường hàng hải qua Eo biển Malacca và Biển Đông. Trong đó, khoảng 60% hàng hoá xuất nhập khẩu của Trung Quốc, 45% hàng hoá của Nhật Bản đi qua Biển Đông; khoảng 67% giá trị xuất khẩu và hơn 40% giá trị nhập khẩu của Australia đi qua quần đảo Indonesia, nơi được kết nối với các tuyến hàng hải quan trọng như Eo biển Malacca, Biển Đông và Biển Sulawesi.

Trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị giữa các siêu cường ngày càng gay gắt, các tuyến đường hàng hải qua khu vực đối mặt với cả các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Việc Trung Quốc ngày càng trở nên quyết đoán và hung hăng hơn trong quan hệ với các nước láng giềng ảnh hưởng tiêu cực tới an ninh hàng hải trong khu vực. Trong khi đó, dữ liệu hàng hải ở Đông Nam Á bị phân mảnh từ nhiều nguồn khác nhau, qua đó làm phức tạp thêm nỗ lực xác định dữ liệu liên quan.
Nhận thức về Lĩnh vực Hàng hải (MDA) được tổ chức Hàng hải Quốc tế định nghĩa là sự hiểu biết hiệu quả về bất cứ điều gì liên quan đến lĩnh vực hàng hải có thể tác động đến an ninh, an toàn, kinh tế hoặc môi trường. MDA được cho là hoạt động như một “công cụ hỗ trợ chính” cho các vấn đề an ninh hàng hải khác, bao gồm việc thu thập, tích hợp và phân tích dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau để theo dõi tàu, giám sát hoạt động vận chuyển hàng hoá, phát hiện các hoạt động vận chuyển gian lận và đánh giá các rủi ro an ninh quốc gia hoặc toàn cầu tiềm ẩn.
Bất kỳ sự gián đoạn nào đối với các tuyến đường biển ở Đông Nam Á này, vốn dễ bị tổn thương trước nhiều mối đe dọa hàng hải khác nhau, sẽ gây bất lợi cho thương mại toàn cầu. Điều này làm cho Nhận thức về Lĩnh vực Hàng hải (MDA) ở Đông Nam Á trở nên quan trọng, bao gồm cả việc thông qua chia sẻ thông tin cho phép các quốc gia và cơ quan thực thi pháp luật thiết lập một “Bức tranh hoạt động chung” toàn diện.
Đông Nam Á thiếu một hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất để tích hợp và lưu trữ dữ liệu về các hoạt động cũng như mối đe dọa hàng hải đa dạng. Các hoạt động kinh tế hàng hải của khu vực tạo ra dữ liệu lịch sử có giá trị về khối lượng vận chuyển và các mối đe dọa hàng hải khác nhau như sự cố cướp biển, tràn dầu, xả thải… đồng thời có thể mang lại lợi ích đáng kể cho nghiên cứu, lập kế hoạch quốc phòng và ra quyết định chiến lược. Tuy nhiên, dữ liệu này hiện bị phân mảnh, thường chỉ giới hạn trong các báo cáo hàng năm của các tổ chức chia sẻ thông tin hoặc cơ quan thực thi pháp luật, trong khi các hồ sơ cũ khó truy cập trực tuyến. Vì vậy, việc thiết lập một cơ sở dữ liệu hàng hải chung là cần thiết.
Không giống như Cổng chia sẻ thông tin ASEAN không còn tồn tại và đã được thay thế bằng Hệ thống chia sẻ thông tin thời gian thực (IRIS) của Trung tâm tổng hợp thông tin (IFC), kho lưu trữ này nên tập trung vào việc tích hợp và lưu trữ dữ liệu lịch sử về các hoạt động và mối đe dọa hàng hải như vận chuyển hàng hải, đăng ký tàu, cướp có vũ trang và đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), cùng nhiều hoạt động khác, thay vì cung cấp thông tin cập nhật trực tiếp. Để giảm thiểu những lo ngại về chủ quyền và sự miễn cưỡng từ các quốc gia, cơ sở dữ liệu chung có thể được phân loại theo quốc gia và hoạt động.
Một cơ sở dữ liệu hàng hải chung lý tưởng nhất sẽ có sự đóng góp và phối hợp từ nhiều bên liên quan, bao gồm cả các quốc gia như Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, kể cả những quốc gia ngoài khu vực quan tâm đến trật tự hàng hải trong khu vực. Các quốc gia thành viên ASEAN sẽ phải cung cấp dữ liệu cơ bản và đầu vào từ các cơ quan hàng hải quốc gia của mình, bao gồm lực lượng bảo vệ bờ biển, hải quân, cơ quan ngư nghiệp, hàng hải và cơ quan biên giới.
Trong khi đó, các tổ chức chia sẻ thông tin khu vực như Trung tâm báo cáo cướp biển của Cục Hàng hải quốc tế (IMB PRC), Thỏa thuận hợp tác khu vực về chống cướp biển của Trung tâm chia sẻ thông tin châu Á (ReCAAP ISC), Trung tâm tổng hợp thông tin (IFC), giới học thuật, các viện nghiên cứu và ngành hàng hải cũng có thể đảm nhận vai trò hỗ trợ không thể thiếu bằng cách đóng góp thông tin và dữ liệu.
Bằng cách hợp nhất dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau và lưu trữ dữ liệu lưu trữ, cơ sở dữ liệu hàng hải chung có thể cung cấp cái nhìn toàn diện và tổng thể hơn về các hoạt động và mối đe dọa hàng hải ở Đông Nam Á. Nó sẽ cho phép các cơ quan thực thi pháp luật hàng hải xác định các mô hình, xu hướng và các mối đe dọa mới nổi cũng như các điểm nóng một cách hiệu quả hơn, nâng cao khả năng chuẩn bị và ứng phó một cách chủ động trước các thách thức an ninh hàng hải.
Cơ sở dữ liệu hàng hải cũng có thể tăng cường chia sẻ thông tin và phối hợp cho các hoạt động chung và phân bổ nguồn lực, nâng cao hiệu quả tổng thể của các nỗ lực an ninh hàng hải trong khu vực.[*]
Ngoài ra, cộng đồng nghiên cứu và vận chuyển cũng có thể sử dụng dữ liệu cho mục đích riêng của họ, góp phần tạo nên MDA toàn diện hơn. Ngoài chức năng là kho lưu trữ dữ liệu hàng hải, cơ sở dữ liệu hàng hải chung còn có thể giúp nâng cao niềm tin giữa các bên liên quan khác nhau trong ngành.
Thật vậy, việc thu hút các cơ quan quốc gia khác nhau tham gia với tư cách là các đơn vị sử dụng cơ sở dữ liệu hàng hải chung đòi hỏi phải có sự hợp tác và minh bạch, khuyến khích mỗi cơ quan chia sẻ dữ liệu và thông tin của mình. Tính minh bạch ngày càng tăng thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, từ đó xây dựng niềm tin giữa các bên liên quan. Nguyên tắc này cũng có thể mở rộng sang khu vực tư nhân – những người có thể hưởng lợi từ nền tảng này với tư cách là người dùng.
Nhiều nước lớn trong lĩnh vực hàng hải rất quan tâm đến việc nghiên cứu các mối đe dọa hàng hải và một nền tảng như vậy sẽ tỏ ra có giá trị đối với họ. Những đánh giá tăng cường về rủi ro được hỗ trợ bởi dữ liệu có thể giúp các công ty vận tải thương lượng để giảm phí bảo hiểm. Tuy nhiên, quyền truy cập cơ sở dữ liệu phải phụ thuộc vào sự đóng góp của họ về dữ liệu liên quan hoặc thậm chí là nguồn tài trợ, đảm bảo luồng thông tin qua lại giúp nâng cao tiện ích tổng thể và tính bền vững của nền tảng.
Trong khi đó, các hội thảo và chương trình đào tạo khu vực cần được tổ chức để đảm bảo tất cả các bên liên quan áp dụng hiệu quả cơ sở dữ liệu hàng hải chung. Các khóa đào tạo cũng có thể hoạt động như một phương tiện để các bên liên quan gặp gỡ, gắn kết và tương tác với nhau. Nó có thể được tiến hành như một phần của Diễn tập chia sẻ thông tin an ninh hàng hải ASEAN, Diễn tập chia sẻ thông tin hàng hải hoặc Diễn tập đoàn kết ASEAN.
Những cuộc tập trận này sẽ mở rộng sự tham gia của các ngành công nghiệp tư nhân, các cơ quan liên quan đến hàng hải khác và các tổ chức chia sẻ thông tin khu vực. Thông qua các cuộc diễn tập bàn tròn, các buổi đào tạo và hội thảo, cách tiếp cận toàn diện này sẽ nâng cao nhận thức chung về tình huống hàng hải và thúc đẩy sự hợp tác lớn hơn giữa các lĩnh vực.
Giới quan sát cho rằng trong bối cảnh Bắc Kinh quân sự hóa tuyến đường thủy chiến lược, năm 2024 Philippines và Việt Nam có nhiều động thái tăng cường hợp tác giữa lực lượng tuần duyên nhằm mở rộng Nhận thức về Lĩnh vực Hàng hải và giúp đảm bảo trật tự dựa trên luật lệ ở Biển Đông.
Trong chuyến thăm Hà Nội cuối tháng 1/2024, Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. lưu ý rằng Việt Nam là “đối tác chiến lược duy nhất của Philippines” ở Đông Nam Á; nhấn mạnh hoạt động hợp tác hàng hải là nền tảng cho mối quan hệ; khẳng định cam kết hợp tác với Việt Nam, một “quốc gia cùng chí hướng”. Ông Marcos nhấn mạnh: “Là các quốc gia hàng hải, chúng tôi chia sẻ đánh giá tương tự về tình trạng hiện tại của môi trường khu vực với các quốc gia hàng hải khác”. “Hai quốc gia chúng tôi có vai trò quan trọng trong việc định hình diễn ngôn an ninh khu vực và duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.”
Nhà phân tích địa chính trị của Philippines Don McLain Gill nhận định các thỏa thuận đã được ký kết trong chuyến thăm có thể “mở đường cho việc xây dựng lòng tin mạnh mẽ hơn, nhận thức về lĩnh vực hàng hải và hợp tác tương tác để không chỉ ổn định các điều kiện dọc theo biên giới hàng hải của họ mà còn có khả năng góp phần đảm bảo rằng toàn bộ Biển Đông vẫn mở và dựa trên các quy tắc trong bối cảnh Trung Quốc mong muốn giữ nó đóng cửa và quân sự hóa bất đối xứng”. Ông Gill nhấn mạnh “Từ quan điểm của Manila, điều này thể hiện mong muốn nhất quán và chủ động của chính quyền Tổng thống Marcos Jr. để thoát khỏi bế tắc kéo dài mà chúng ta đã gặp phải trong nhiều năm do Bắc Kinh không sẵn sàng hợp tác vì hòa bình trên biển”.
Thực hiện thoả thuận trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Marcos, tháng 8/2024, Lực lượng Bảo vệ bờ biển Philippines và Cảnh sát biển Việt Nam đã lần đầu tiên tiến hành cuộc diễn tập chung ở Biển Đông. Đây là cơ sở cho việc mở rộng hợp tác giữa các nước Đông Nam Á để nâng cao Nhận thức về Lĩnh vực Hàng hải. Ông Don McLain Gill đánh giá: “Các nước ASEAN có tầm nhìn chung với việc duy trì hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế trong lĩnh vực hàng hải tại Đông Nam Á. Do đó, mục tiêu bao quát này, cùng với việc không có tham vọng bành trướng, đóng vai trò là nền tảng tích cực cho quá trình nở rộ của mối quan hệ song phương và đa phương”, góp phần nâng cao Nhận thức về Lĩnh vực Hàng hải ở Biển Đông và trong khu vực./.
[*] Ban Thư ký ASEAN, thông qua Diễn đàn Hàng hải ASEAN (AMF) hoặc Diễn đàn Hàng hải ASEAN mở rộng (EAMF), có thể lãnh đạo và quản lý cơ sở dữ liệu hàng hải chung. Khi các Đối tác Đối thoại của ASEAN như Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên minh châu Âu (EU) tìm cách mở rộng quan hệ đối tác và hội nhập với các thành viên ASEAN, một cơ sở dữ liệu chung sẽ cung cấp một dự án đáng tin cậy và hữu ích để tăng cường hợp tác hàng hải với các quốc gia trong khu vực. Họ có thể cung cấp chuyên môn kỹ thuật và hỗ trợ để phát triển cơ sở dữ liệu vì họ cũng là quốc gia sử dụng các tuyến đường biển quan trọng của Đông Nam Á.