Friday, December 5, 2025
Trang chủBiển ĐôngPháp luật biểnPhán quyết Vụ kiện Toà trọng tài Biển Đông: Nhìn lại sự...

Phán quyết Vụ kiện Toà trọng tài Biển Đông: Nhìn lại sự tham gia của Việt Nam và tác động của Phán quyết đối với Việt Nam

Đã chín năm kể từ khi Toà trọng tài thành lập theo Phụ lục VII Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển đã ra Phán quyết trong vụ kiện Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc (12/7/2016). Được xem như là một “vụ kiện thế kỷ, bước ngoặt Biển Đông”, Phán quyết của Toà trọng tài về vụ kiện Biển Đông đã mang lại nhiều tác động tích cực về mọi mặt đối với tranh chấp Biển Đông.

Mặc dù Phán quyết chỉ có giá trị ràng buộc giữa Philippines và Trung Quốc, nhưng Phán quyết của Tòa Trọng tài đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng và vững chắc hơn trong việc đấu tranh bác bỏ các yêu sách biển và hoạt động trên biển bất hợp pháp cho các nước ven biển đặc biệt là các nước ven Biển Đông.

Sau 9 năm Phán quyết có hiệu lực, chúng ta sẽ cùng nhìn lại sự tham gia của Việt Nam đối với tiến trình vụ kiện và tác động “bước ngoặt” của Phán quyết đối với Việt Nam.

Vụ kiện Toà trọng tài Biển Đông

Ngày 22/01/2013, Philippines đệ đơn khởi kiện Trung Quốc lên Tòa Trọng tài Phụ lục VII Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) để giải quyết một số tranh chấp biển giữa hai nước ở Biển Đông theo quy định của UNCLOS 1982. Nội dung đơn kiện của Philippines tập trung vào ba nội dung chính: (i) Yêu sách “quyền lịch sử” đối với vùng biển trong phạm vi “đường chín đoạn” như được thể hiện trên các bản đồ mà Trung Quốc công bố không có hiệu lực pháp lý do vượt quá phạm vi quyền mà Trung Quốc được hưởng theo UNCLOS 1982; (ii) Xác định quy chế pháp lý của bãi cạn Scarborough và một số cấu trúc mà cả Trung Quốc và Philippines yêu sách và trên cơ sở đó xác định quyền được hưởng vùng biển của các cấu trúc này theo UNCLOS 1982; (iii) Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS 1982 khi cản trở Philippines thực thi các quyền của mình bao gồm quyền đánh cá, khai thác dầu, hàng hải và xây dựng các đảo nhân tạo và công trình trên biển, vi phạm các nghĩa vụ bảo vệ môi trường biển thông qua các hoạt động bồi đắp, xây dựng đảo, đánh bắt cá.

Trung Quốc không chấp nhận và không tham gia vụ kiện. Ngày 21/6/2013, Tòa Trọng tài Phụ lục VII UNCLOS 1982chính thức được thành lập và đi vào hoạt động. Ngày 29/10/2015, Toà trọng tài ra phán quyết về thẩm quyền, khẳng định có thẩm quyền giải quyết đối với một số nội dung của đơn kiện; một số nội dung khác sẽ được Toà tiếp tục xem xét ở giai đoạn xét xử về nội dung của vụ kiện. Ngày 12/7/2016 Toà ra phán quyết cuối cùng về nội dung. Mặc dù Trung Quốc không tham gia vụ kiện và không công nhận Phán quyết, theo Luật pháp quốc tế, Phán quyết của Tòa trọng tài là chung thẩm và có giá trị ràng buộc đối với Trung Quốc và Philippines. Phán quyết ngày 13/7/2016 của Toà trọng tài Biển Đông đã bác bỏ yêu sách “đường chín đoạn” dựa trên quyền lịch sử, khẳng định không có cấu trúc nào ở Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng; khẳng định Trung Quốc không phải là quốc gia quần đảo, do đó không được coi quần đảo Trường Sa là 1 thực thể đơn nhất để từ đó được nối liền các điểm ngoài cùng của quần đảo Trường Sa làm đường cơ sở và yêu sách các vùng biển xung quanh Trường Sa như một thực thể đơn nhất.

Sự tham gia của Việt Nam

Việt Nam là một trong những nước có tranh chấp chủ quyền và biển ở Biển Đông với cả Trung Quốc và Philippines, có lợi ích có thể bị ảnh hưởng bởi vụ kiện, do vậy, ngày 5/12/2014, Việt Nam gửi Toà trọng tài Tuyên bố của Bộ ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam gửi cho Tòa trọng tài nhằm khẳng định lại lập trường và quan điểm của Việt Nam đối với vụ kiện này.

Nội dung của Tuyên bố bao gồm sáu điểm, trong đó có một số điểm nổi bật như sau. Thứ nhất, Việt Nam khẳng định Việt Nam ủng hộ các quốc gia thành viên UNCLOS 1982 tìm kiếm giải pháp cho các tranh chấp giữa các quốc gia liên quan đến giải thích hay áp dụng UNCLOS 1982 thông qua các biện pháp hòa bình phù hợp với các quy định và thủ tục của UNCLOS 1982, bao gồm các thủ tục được quy định tại Phần XV của UNCLOS 1982; trên cơ sở đó khẳng định Tòa có thẩm quyền trong vụ kiện. Thứ hai, khẳng định vụ kiện trọng tài này có thể liên quan và thậm chí ảnh hưởng đến một số quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam trên Biển Đông, như liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các quyền và lợi ích của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, quy chế pháp lý của các cấu trúc nằm trong “đường chín đoạn”, các quyền và lợi ích của Việt Nam trong vùng biển chung bên trong “đường chín đoạn” … Thứ ba, Việt Nam kiên quyết phản đối và bác bỏ bất kỳ yêu sách nào của Trung Quốc trên Biển Đông dựa vào “đường chín đoạn” bởi vì bất kỳ yêu sách nào như thế sẽ vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam như được xác định theo UNCLOS 1982 và luật pháp quốc tế chung. Thứ tư, Việt Nam cho rằng không có bất kỳ thực thể nào được Philippines đề cập trong vụ kiện này có thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa hoặc tạo ra quyền được hưởng vùng biển vượt quá 12 hải lý do các thực thể này hoặc là bãi lúc nổi lúc chìm hoặc là “đảo đá không thể duy trì sự cư trú của con người hoặc đời sống kinh tế riêng” theo Điều 121(3) của UNCLOS 1982. Thứ năm, Việt Nam ủng hộ thẩm quyền của Toà trong việc giải thích và áp dụng các điều 60, 80, 194(5), 206, 293(1), and 300 của UNCLOCS 1982 có lợi ích pháp lý trong việc Tòa giải thích và áp dụng Điều 300 và các quy định có liên quan của UNCLOS 1982 và các văn kiện có liên quan. Cuối cùng, Việt Nam đề nghị Tòa xem xét thích đáng đến quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam trên Biển Đông và bảo lưu tất cả các quyền của mình nhằm sử dụng các biện pháp hòa bình để bảo vệ các quyền lợi pháp lý và các quyền lợi hợp pháp của mình ở Biển Đông. Việt Nam cũng đề nghị cho phép được nhận bản sao các tài liệu liên quan của Vụ kiện.

Có thể thấy các nội dung của Phán quyết về Thẩm quyền 2015 và Phán quyết về Nội dung 2016 đã khẳng định và chứng minh lập trường của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với Luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982. Tuyên bố này đã được tổng hợp lại trong Phụ lục 468 của Bộ Tranh tụng bổ sung của Philippines và được Toà trọng tài dẫn chiếu trong cả Phán quyết về Thẩm quyền 2015 và Phán quyết về Nội dung 2016. Trong quá trình xét xử vụ kiện, Việt Nam đã cử đại diện tham dự quá trình tố tụng của Tòa Trọng tài với tư cách là quan sát viên.

Lập trường pháp lý của Việt Nam đối với Vụ kiện

Ngay khi Tòa Trọng tài đưa ra Phán quyết về nội dung Vụ kiện ngày 12/7/2016, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ra tuyên bố hoan nghênh Phán quyết này. Đồng thời, Việt Nam khẳng định lập trường nhất quán của mình về vụ kiện này như đã được thể hiện đầy đủ trong Tuyên bố ngày 5/12/2014 của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Tòa Trọng tài, ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực theo quy định của luật pháp quốc tế, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, tôn trọng nguyên tắc thượng tôn pháp luật trên các vùng biển và đại dương, tiếp tục khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Trong các năm 2021 và 2023 nhân dịp kỷ niệm 5 năm và 7 năm Phán quyết, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã tiếp tục phát biểu khẳng định thêm lập trường và quan điểm của Việt Nam cũng như thể hiện sự thượng tôn pháp luật khi giải quyết các tranh chấp trên biển. Nội dung các phát biểu theo hướng khẳng định lại lập trường về ủng hộ việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực theo quy định của luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982; khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển được xác lập phù hợp UNCLOS 1982.

Tác động của Phán quyết đối với Việt Nam

Là một trong những án lệ nổi bật của luật quốc tế nói chung và luật biển quốc tế hiện đại, Phán quyết đã đóng góp vào việc làm sáng tỏ các quy định của UNCLOS 1982 về mặt thủ tục (liên quan đến việc giải thích và áp dụng các điều khoản về giải quyết tranh chấp tại Phần XV) và nội dung (liên quan đến việc giải thích và áp dụng các điều khoản về quy chế pháp lý các vùng biển, quy chế pháp lý của đảo, đá, các điều khoản liên quan đến việc thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, các điều khoản về bảo vệ và bảo tồn môi trường biển.

Với việc bác bỏ giá trị pháp lý của các yêu sách “đường chín đoạn”, yêu sách “Tứ Sa”, xác định quy chế pháp lý và quyền được hưởng vùng biển của các cấu trúc ở quần đảo Trường Sa, Phán quyết đã làm rõ hơn bức tranh pháp lý ở Biển Đông, tạo ra cơ sở pháp lý có lợi cho Việt Nam trong việc củng cố và làm rõ hơn các yêu sách chủ quyền và biển ở Biển Đông, phản bác các yêu sách biển bất hợp pháp và đấu tranh chống lại các hoạt động trên biển bất hợp pháp của Trung Quốc ở Biển Đông.

Một trong những minh chứng nổi bật nhất và đáng chú ý nhất phải kể đến đó là Công hàm số 22/HC-2020 ngày 30/3/2020 của Việt Nam gửi Liên hợp quốc. Công hàm được đệ trình nhằm phản bác các yêu sách và lập luận pháp lý của Trung Quốc nêu tại Công hàm CML/14/2019 ngày 12/12/2019 trong bối cảnh Malaysia đệ trình báo cáo ranh giới ngoài thềm lục địa lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa. Công hàm 22 lần đầu tiên công khai chính thức và có hệ thống quan điểm pháp lý của Việt Nam về tranh chấp Biển Đông, theo đó, khẳng định UNCLOS 1982 là “cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển” giữa Việt Nam và Trung Quốc; Vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định phù hợp với Điều 121(3); các nhóm đảo tại Biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất; các bãi ngầm hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng. Việt Nam phản đối các yêu sách ở Biển Đông vượt quá những giới hạn được quy định tại UNCLOS 1982, trong đó có yêu sách quyền lịch sử; các yêu sách này đều không có giá trị pháp lý.

Có thể khẳng định các quan điểm này là đúng đắn, nhất quán theo Luật pháp quốc tế mà đã được Tòa Trọng tài vụ kiện Biển Đông khẳng định trong Phán quyết. Công hàm đã có sự vận dụng linh hoạt và sáng tạo ngôn ngữ từ Phán quyết.

Quan điểm của Việt Nam như được thể hiện tại Công hàm 22 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho Việt Nam trong đấu tranh và phản ứng trước các vụ việc ở Biển Đông. Nếu như trước đây, Việt Nam chưa từng công bố về phạm vi của hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, thì dường như sau Phán quyết, Việt Nam dần dần làm rõ hơn các đối tượng cấu trúc mà Việt Nam không có yêu sách chủ quyền trên biển. Đó là các cấu trúc thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philippines mà Toà trọng tài đã xác định quy chế pháp lý là bãi ngầm hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi, không phải là đối tượng của thụ đắc lãnh thổ. Chẳng hạn trong vụ việc Bãi Cỏ Mây ngày 17/6/2024, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam không khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, mà chỉ cho biết “Việt Nam theo dõi chặt chẽ và quan ngại sâu sắc trước những thông tin về vụ việc diễn ra ngày 17/6/2024 tại khu vực Bãi Cỏ Mây, giữa Philippines và Trung Quốc.” Như vậy, có thể khẳng định, Việt Nam không có yêu sách chủ quyền đối với Bãi Cỏ Mây. Điều này hoàn toàn phù hợp với nội dung Phán quyết cho rằng Bãi Cỏ Mây là cấu trúc lúc chìm lúc nổi thuộc phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines.

Ngoài ra, Vụ kiện trọng tài Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc là một tiền lệ quý báu đối với Việt Nam trong việc nghiên cứu và định hướng sử dụng biện pháp pháp lý để đấu tranh chống lại các yêu sách và hoạt động bất hợp pháp ở Biển Đông. Vụ kiện Biển Đông cho thấy các quốc gia vừa và nhỏ, được cho là yếu thế, hoàn toàn có thể sử dụng luật pháp quốc tế làm công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình ở Biển Đông. Do vậy, việc những kinh nghiệm tham gia vụ kiện Biển Đông là tiền đề quý giá cho Việt Nam trong việc tiếp tục tham gia thực chất và sâu hơn vào các tiến trình pháp lý quốc tế sau này như thủ tục xin ý kiến tư vấn ITLOS, ICJ … Đây cũng sẽ là những kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong việc chuẩn bị sẵn sàng sử dụng biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích ở Biển Đông. Sau hơn gần một thập kỷ trôi qua, Phán quyết Toà trọng tài Biển Đông vẫn còn nguyên sức sống. Đây chính là minh chứng hùng hồn về vai trò của luật pháp quốc tế cũng như là động lực giúp các quốc gia ven biển như Việt Nam tự tin hơn, mạnh mẽ hơn trong bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982.

RELATED ARTICLES

Tin mới