Friday, December 5, 2025
Trang chủĐàm luậnAn ninh Biển Đông sẽ ra sao dưới tác động từ liên...

An ninh Biển Đông sẽ ra sao dưới tác động từ liên minh của Mỹ ở khu vực dưới thời D.Trump 2.0                            

Các liên minh và hệ thống căn cứ quân sự của Mỹ ở khắp các châu lục trên thế giới thường được xem là “tài sản chiến lược quốc gia”, giúp Mỹ duy trì vai trò “siêu cường” và theo đuổi các lợi ích chiến lược khác nhau từ trước tới nay.

Tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương hay còn gọi là khu vực Ấn – Thái, các liên minh do Mỹ “dẫn dắt” những năm gần đây, có sự chuyển hướng theo dạng hình thành một mạng lưới các “tiểu liên minh” theo kiểu “ba bên” hoặc “bốn bên” và quan hệ đối tác đa dạng, nhằm thiết kế một “công cụ” quan trọng để Mỹ kiềm chế một cách chặt chẽ và sát sườn hơn đối với sự “trỗi dậy và bành trướng” của Trung Quốc. Tuy nhiên, khi ông D.Trump quay trở lại Nhà Trắng làm tổng thống nhiệm kỳ hai (2.0), bước đầu đang thực thi những chính sách khiến nhiều nước khu vực Ấn – Thái nằm trong các liên minh trên nảy sinh sự lo ngại về triển vọng hoạt động trong tương lai. Kèm theo đó là những tác động nào sẽ đến với an ninh khu vực Biển Đông.

Nhìn lại chính sách của ông D.Trump đối với các liên minh ở khu vực Ấn – Thái trong nhiệm kỳ đầu

Năm 2017, trong “Chiến lược an ninh quốc gia” của Mỹ, ông D.Trump đã nói về nhận định “Chiến lược này cho thấy chúng ta đang ở trong một kỷ nguyên của cạnh tranh toàn cầu trong các lĩnh vực như kinh tế, quân đội và chính trị. Chúng ta cũng phải đối mặt với các quốc gia kình địch như Nga và Trung Quốc, những nước tìm cách thách thức ảnh hưởng, giá trị và thịnh vượng của Mỹ. Chúng ta sẽ tìm cách xây dựng một mối quan hệ đối tác lớn với những nước đó với mục đích là luôn luôn bảo vệ giá trị quốc gia”.

Năm 2019, chính quyền ông D.Trump đã công bố chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” (Free and Open Indo Pacific – FOIP), trong đó nhấn mạnh sẽ duy trì một khu vực tự do, mở cửa và thịnh vượng, với mục tiêu chính là đối phó với sự “trỗi dậy” của Trung Quốc. Theo đó, Mỹ xác định sẽ củng cố các liên minh song phương với Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan và Australia, đồng thời thúc đẩy các khuôn khổ an ninh đa phương như nhóm “Bộ tứ” (QUAD) gồm Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ, Hiệp định đối tác an ninh ba bên Australia, Vương quốc Anh và Mỹ (AUKUS), Liên minh ba bên Mỹ, Australia và New Zealand (ANZUS). Đó là chưa kể gia tăng quan hệ với các tổ chức, các quốc gia đối tác khác trong khu vực như ASEAN, Đối thoại Shangri-La, Singapore, Việt Nam, Ấn Độ, Indonesia…  

Đi cùng với việc công bố chiến lược “FOIP”, Mỹ cũng đã đổi tên Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương (USPACOM) của họ thành Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (USINDOPACOM), phản ánh rõ nét ưu tiên chiến lược của Washington đối với khu vực đại dương rộng lớn, trải dài từ Ấn Độ Dương tới Thái Bình Dương. Ngoài ưu tiên chiến lược trên, một điểm nhấn khác rất đáng quan tâm là Mỹ chủ trương sẽ tập trung vào việc đối phó với Trung Quốc thông qua cạnh tranh trong các lĩnh vực quân sự, kinh tế và thương mại. Dựa trên sự kế thừa và tiếp nối với các chính sách đã có trước đây của Mỹ.

Tuy nhiên, khác với những người tiền nhiệm, với phong cách tư duy mang nặng “tính thực dụng” và “giao dịch” mà ông D. Trump rất ưa chuộng, nên ông đã “chuyển hóa” chúng vào trong quan hệ với các đối tác, kể cả với các đồng minh thân cận, “cùng chí hướng”. Theo đó, Tổng thống D.Trump thường xuyên yêu cầu, thậm chí có lúc gay gắt, với đồng minh trong việc chia sẻ gánh nặng tài chính và chiến lược. Ngay như cả với đồng minh rất thân cận là Nhật Bản, ông cũng công khai đặt câu hỏi về giá trị của liên minh này đối với Mỹ, đồng thời yêu cầu hai đồng minh là Hàn Quốc và Nhật Bản phải tăng chi phí cho sự hiện diện quân sự của Mỹ tại các cứ điểm tiền tiêu. Thậm chí, ông D.Trump còn tìm cách “xích lại” gần hơn với Triều Tiên dù rằng động thái này không mấy hiệu quả, khiến cho lợi ích an ninh của Hàn Quốc gặp bất lợi. Đối với QUAD, nhóm liên minh được thành lập năm 2007, nhưng năm 2017 mới chính thức khởi động và AUKUS mới được thành lập tháng 9/2021, mặc dù đã hình thành và đi vào hoạt động, nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế, chậm trễ trong triển khai, làm ông D.Trump không thật hài lòng và đặt ra nhiều yêu cầu theo hướng đưa lại nhiều lợi ích hơn cho nước Mỹ.

Dù vậy, nhìn tổng thể trong nhiệm kỳ đầu của ông D. Trump vẫn thấy,  việc ông sử dụng các liên minh ở khu vực Ấn – Thái để kiềm chế Trung Quốc đã đạt được một số kết quả, nổi bật là: 1/ Đã củng cố thêm quan hệ với các đồng minh truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia. Đặc biệt, Mỹ đã chú trọng quan hệ với Ấn Độ, công nhận vai trò quan trọng của nước này trong chiến lược “FOIP” để kiềm chế Trung Quốc. 2/ Khôi phục và khởi động lại QUAD nhằm tăng cường hợp tác an ninh và đối phó với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc. 3/ Thể hiện rõ quyết tâm hơn của Mỹ trong việc duy trì vai trò lãnh đạo và đối phó với các thách thức đến từ Trung Quốc thông qua việc công bố chiến lược “FOIP”. 4/ Đã thực thi các biện pháp thuế quan và thương mại “cứng rắn” đối với Trung Quốc, qua đó giúp giảm thiểu thâm hụt thương mại và kiềm chế sự trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế của nước này.

Bên cạnh kết quả trên, vẫn tồn tại một số thách thức và hạn chế, như:
1/ Việc Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã gây ra sự “hoang mang” cho các đồng minh và đối tác, nhưng lại tạo cơ hội cho Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng kinh tế trong khu vực. 2/ Sự thiếu nhất quán và khó đoán định trong chính sách đối ngoại của ông D.Trump đã gây khó khăn cho việc xây dựng lòng tin với các đồng minh. 3/ Xu hướng tập trung vào cạnh tranh song phương với Trung Quốc, thay vì xây dựng một chiến lược đa phương toàn diện đã làm giảm sức ép và khả năng “răn đe tập thể” đối với Trung Quốc. 4/ Cách tiếp cận “nước Mỹ trên hết” và các yêu cầu chia sẻ gánh nặng tài chính của ông D.Trump đã gây ra sự căng thẳng trong quan hệ với một số đồng minh truyền thống.

Sau khi tiếp quản Nhà Trắng, chính quyền Tổng thống J.Biden vẫn kế tục chính sách của ông D.Trump, đẩy mạnh cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc bằng cách bổ sung các khía cạnh công nghệ, đổi mới và tách rời chuỗi cung ứng. Ông J.Biden đã tiến hành củng cố các liên minh song phương với Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và Philippines, đồng thời tái cam kết với ASEAN thông qua Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+). Đối với hai cơ chế là QUAD và AUKUS, Mỹ đã tăng cường đáng kể tính chất tác chiến của QUAD thông qua việc thành lập các nhóm công tác và tổ chức cuộc họp thường niên ở cấp nguyên thủ quốc gia và chính phủ. Với AUKUS, nổi bật nhất là việc Hải quân Australia sẽ sở hữu 8 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân do Mỹ sản xuất, một động thái rõ ràng là nhằm đối phó với Trung Quốc trong khu vực Ấn – Thái. Đồng thời, một loạt những cơ chế “nhóm nhỏ” quan trọng được hình thành, như Đối thoại an ninh 3 bên Mỹ – Nhật – Australia (kéo dài 7 năm) cùng với Đối thoại Mỹ – Nhật – Hàn, được khởi xướng tại Trại David hồi tháng 8/2023, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ – Nhật – Phi (tháng 4/2024)… cho phép Mỹ hợp tác có mục tiêu và hiệu quả hơn trong các vấn đề an ninh cụ thể với các đối tác “cùng chí hướng”.

Có thể khẳng định rằng, cả ông D.Trump và ông J.Biden đã có nhiều nỗ lực đưa Mỹ trở lại và đóng vai trò “dẫn dắt” các hành động đa phương ở khu vực để kiềm chế Trung Quốc thông qua các liên minh, các quan hệ đối tác và cơ chế đa phương.

Các liên minh do Mỹ “dẫn dắt” ở khu vực Ấn – Thái dưới thời D.Trump 2.0 sẽ ra sao

Các liên minh đã được xem là “tài sản chiến lược” thì có thể hiểu, người đứng đầu nước Mỹ và nội các Mỹ có thể thay đổi, nhưng “tài sản” trên chắc chắn vẫn sẽ được duy trì. Tuy nhiên, dưới thời ông D.Trump hiện nay, các liên minh này đang bị tác động, chi phối bởi các yếu tố sau: 1/ Với tư duy ưu tiên “lợi ích nước Mỹ là trên hết”, ông D.Trump sẽ tiếp tục đặt lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ lên hàng đầu, sẽ đòi hỏi các đồng minh đóng góp nhiều hơn về tài chính và quân sự để cùng “chia sẻ gánh nặng” với Mỹ. Các đồng minh của Mỹ ở khu vực Ấn – Thái cũng không đứng ngoài đòi hỏi trên của Mỹ. 2/ Về quan hệ kinh tế, ông D.Trump sẽ sử dụng cách tiếp cận “cứng rắn” hơn về thương mại, thuế quan với Trung Quốc, và cũng có thể áp dụng cách làm này với cả các đồng minh để gây áp lực, buộc các nước này phải có trách nhiệm và hành động thực chất, hiệu quả hơn, qua đó đưa lại lợi ích lớn hơn cho nước Mỹ. Điều này đã xảy ra khi ngày 02/4/2025, ông D.Trump đã ban hành luật thuế đối ứng mới lên hơn 180 quốc gia có quan hệ thương mại với Mỹ. 3/ Phong cách lãnh đạo “khó đoán định” của ông D.Trump có thể tạo ra sự không chắc chắn về cam kết của Mỹ, bằng chứng là ngày 02/4/2025 ông vừa ban hành mức thuế rất cao đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu của hầu hết các nước đối tác thương mại thì ngày 28/4/2025 lại ra quyết định hoãn thi hành 90 ngày. Rồi điều chỉnh cả mức thuế với từng nước đối tác theo mức độ “thương lượng” và quan hệ với từng nước trên. Điều này khiến các đồng minh phải “tự sờ lên gáy” mà tìm kiếm các bảo đảm khác hoặc khả năng tự chủ lớn hơn. 4/ Nội bộ Mỹ có sự đồng thuận hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho Chính quyền D.Trump thực thi các chính sách đối với các liên minh. Hiện nay, cả đảng Cộng hòa và Dân chủ đều thống nhất rằng, Trung Quốc là “thách thức lớn nhất về an ninh và kinh tế” đối với Mỹ, được thể hiện trong Dự án 2025 (Project 2025) – dự án nhằm duy trì chiến lược “FOIP”.

Rõ ràng, các yếu tố chi phối và tác động trên cho thấy, việc sử dụng các liên minh để thực hiện chiến lược trên sẽ vẫn được duy trì, nhất là nhằm kiềm chế Trung Quốc. Trong đó, các chính sách “cứng rắn” về thương mại và an ninh đối với Trung Quốc vẫn tiếp nối và sẽ mạnh mẽ hơn trong nhiệm kỳ hai của ông D.Trump, nhưng khi tiếp cận và triển khai thực hiện với các liên minh, sẽ có sự thay đổi và dự báo có thể xảy ra các “kịch bản” sau.

Thứ nhất, Mỹ sẽ gia tăng yêu cầu các đồng minh phải có sự đóng góp nhiều hơn. Lý do đầu tiên xuất phát từ các yếu tố chi phối như đã nêu trên. Tiếp theo là, trong nhiệm kỳ đầu, ông D.Trump đã từng chỉ trích các đồng minh NATO vì không đóng góp đủ ngân sách quốc phòng, nên cũng có thể áp dụng logic tương tự trong nhiệm kỳ hai với các đối tác châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, hay Philippines. Điều này có thể làm suy yếu lòng tin của các đồng minh vào cam kết dài hạn của Mỹ. Mặt khác, không giống như ông J.Biden là chú ý đến tính dài hạn và nhấn mạnh sức mạnh tập thể của liên minh, ông D.Trump ưa thích các thỏa thuận song phương hơn đa phương (điển hình là rút khỏi TPP trong nhiệm kỳ đầu), nên có thể làm giảm hiệu quả của các cơ chế đa phương như QUAD hoặc AUKUS, vốn dựa trên hợp tác đa phương để cân bằng ảnh hưởng với Trung Quốc thông qua “răn đe tập thể”. Ông D.Trump đã nhiều lần tuyên bố, Đài Loan nên “trả phí” cho việc Mỹ bảo vệ hòn đảo này khi cho rằng, Đài Loan không đóng góp đủ cho việc này, còn Mỹ đóng vai trò như một “công ty bảo hiểm”. Hay như yêu cầu Nhật Bản hỗ trợ nếu Mỹ bị tấn công. Tư duy và cách làm này có thể tạo thêm áp lực lên các đồng minh, gây xáo trộn nhất định, nhưng sẽ không làm suy yếu và thậm chí tác động ở mức độ nào đó với các liên minh, bởi vì các nước Nhật Bản, Australia, Philippines và vùng lãnh thổ Đài Loan không thể không có Mỹ để “cân bằng” và “đối chọi” với Trung Quốc. Và ngược lại, Mỹ sẽ khó có thể bảo đảm cao nhất lợi ích của mình ở khu vực nếu thiếu sự hợp tác liên minh với những đối tác này.

Thứ hai, chiến lược an ninh của Mỹ có thể sẽ có sự thay đổi theo phong cách tư duy thực dụng của ông D.Trump, khiến các đồng minh lâm vào thế “khó xử” trong cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc. Vừa qua, ông D.Trump đã đề xuất rút quân khỏi một số khu vực ở châu Âu và các khu vực khác trên thế giới để “tiết kiệm chi phí”, vậy nên cũng không loại trừ khả năng vấn đề giảm hiện diện quân sự của Mỹ ở châu Á cũng có thể được đặt ra trong tương lai. Tuy vậy, khả năng này trước mắt rất khó xảy ra vì từ đầu nhiệm kỳ đến nay, nội bộ chính quyền Mỹ rất nhất quán trong việc đánh giá và coi trọng khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nhất là nguy cơ nổi lên từ Trung Quốc. Mặc dù vậy, các đồng minh trong khu vực đều tính đến tình huống này và chú ý củng cố năng lực quốc phòng hoặc tìm kiếm quan hệ với các đối tác như Pháp, Ấn Độ, thậm chí tìm đường “đến gần” Trung Quốc. Ông D.Trump cũng có thể tăng cường ủng hộ Đài Loan, như bán vũ khí, ủng hộ tư cách thành viên của Đài Loan trong các tổ chức quốc tế… Hoạt động này chắc chắn sẽ vấp phải sự phản ứng của Trung Quốc, và vì thế sẽ đặt các nước vào thế khó xử trong cân bằng quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh khi bày tỏ quan điểm.

Thứ ba, Mỹ sẽ tái áp thuế quan hoặc hạn chế thương mại “cứng rắn” hơn với Trung Quốc. Điều này đã xảy ra ngay những ngày đầu của D.Trump 2.0. Tuy nhiên, cách tiếp cận “đơn phương” này có thể làm suy yếu sự phối hợp với các đồng minh, vốn lâu nay đã phụ thuộc vào chuỗi cung ứng từ Trung Quốc. Đối với chiến lược “FOIP”, để vừa bảo vệ lợi ích và ảnh hưởng của Mỹ đã có gần một thế kỷ nay vừa kiềm chế Trung Quốc, ông D. Trump vẫn duy trì và thúc đẩy, nhưng sẽ hạn chế đầu tư đa phương, thay vào đó tập trung vào các thỏa thuận song phương có lợi trực tiếp cho Mỹ, song lại ảnh hưởng đến lợi ích của các đồng minh.

Thứ tư, các đồng minh trong khu vực sẽ có sự phản ứng, gây bất lợi cho Mỹ. Trên thực tế, các nước này đang có sự phụ thuộc rất lớn vào Mỹ cả về an ninh và kinh tế, nhất là về an ninh. Song, trên cương vị tổng thống của một quốc gia “siêu cường”, ông D.Trump có sự tính toán rất sâu xa và chi ly, sẵn sàng bỏ qua lợi ích của nước khác để hướng đến mục tiêu “lợi ích nước Mỹ là trên hết”. Chỉ xem những gì ông D.Trump hành xử với nước Nga và cuộc chiến ở Ucraines trong vòng 100 ngày mới lên cầm quyền đã cho thấy những toan tính “thâm sâu” của ông mà ngay đến cả những đồng minh “cật ruột” như Anh, Pháp, Đức đều thất vọng và quay cuồng ứng phó. Trong bối cảnh như vậy, các nước, các tổ chức như ASEAN, Ấn Độ, hay Australia có thể quay sang tăng cường hợp tác nội khối, hoặc mở rộng quan hệ với các tổ chức và cường quốc khác như EU, Nga để giảm sự phụ thuộc vào Mỹ.

Quan hệ Mỹ – Trung vốn đã căng thẳng, nay chính quyền D.Trump 2.0 lại nhấn mạnh rằng, Trung Quốc là “mối đe dọa trực tiếp nghiêm trọng nhất” đối với Mỹ (Dự án 2025). Vì thế, để đề phòng với tình huống xung đột Mỹ – Trung có thể xảy ra, gây bất lợi cho bản thân, nhiều nước trong khu vực, kể cả là đồng minh và đối tác quan trọng của Mỹ, như Hàn Quốc, Singapore…sẽ tìm cách  “dung hòa lợi ích”, tránh đứng hẳn về “phe” Mỹ do sự bất ổn và tính khó đoán định của ông D.Trump.

Thứ năm, đây có lẽ là “kịch bản” mà ông D.Trump không mong muốn, nhưng tư duy và cách làm của ông đối với các liên minh lại có thể dẫn đến, đó là tạo “cơ hội” cho Trung Quốc phát triển, bởi Trung Quốc không bao giờ “án binh bất động” trước Mỹ. Nghĩa là, lợi dụng chính sách “thực dụng” và “khó đoán định” của ông D.Trump có thể gây chia rẽ các liên minh, Trung Quốc sẽ tăng cường chính sách quan hệ kinh tế, thương mại với các nước “bạn bè” của Mỹ, gia tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, “ngoại giao bẫy nợ”… hoặc mở rộng ảnh hưởng quân sự ở Biển Đông nếu cảm thấy Mỹ có phần “sao nhãng”. Các sáng kiến kinh tế lớn do Trung Quốc “cầm trịch” như “Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực” (RCEP), hoặc sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI) có thể trở nên hấp dẫn hơn nếu Mỹ rút khỏi vai trò lãnh đạo kinh tế ở khu vực.

Những tác động tới an ninh khu vực Biển Đông dưới thời D.Trump 2.0

Với những “kịch bản” trên, an ninh khu vực Biển Đông trong nhiệm kỳ hai của Tổng thống D.Trump sẽ ra sao là vấn đề không dễ đoán định, nhưng chắc chắn Mỹ sẽ gia tăng các hoạt động vào khu vực này trên nhiều mặt trận, nhiều cách thức khác nhau. Trong đó, sử dụng các liên minh và đối tác là một cách thức được ông D.Trump chú trọng và triển khai theo phong cách riêng “không giống ai” của vị tổng thống này. Chính vì vậy, tình hình an ninh ở khu vực Biển Đông thời gian tới bị tác động và có thể diễn biến theo các hướng sau:

Một là, đối đầu và căng thẳng sẽ gia tăng. Lý do là, ngoài áp dụng “con bài sở trường” là “trừng phạt” về kinh tế đối với Trung Quốc, Mỹ sẽ tăng cường các hoạt động quân sự với các đồng minh đã có ở khu vực này, dựa trên thế mạnh  về hợp tác quân sự đã từng được xây dựng và triển khai. Theo đó, các cuộc diễn tập quân sự đơn phương, song phương và đa phương do Mỹ dẫn dắt sẽ tiếp tục gia tăng; nhiều loại trang bị, vũ khí mới thuộc thế hệ “công nghệ 4.0” sẽ được tích hợp và đưa vào triển khai, thí nghiệm và ứng dụng; không loại trừ sẽ xuất hiện thêm các hiệp ước, các liên minh mới xuất hiện hay được mở rộng từ các liên minh cũ. Khi “kịch bản” này xảy ra, Trung Quốc chắc chắn sẽ phản ứng lại dưới nhiều hình thức trong đó có thể gia tăng hoạt động làm phức tạp tình hình, xâm phạm vùng biển các nước liên quan nhất là Philippinnes, nước được cho là “thân Mỹ”, nên có thể dẫn đến các cuộc va chạm thậm chí “đối đầu” trực tiếp trên biển và trên không, làm gia tăng nguy cơ tính toán sai lầm và xung đột không mong muốn.

Hai là, trước áp lực về an ninh ở Biển Đông, không loại trừ khả năng các quốc gia trong khu vực có thể buộc phải “chọn phe”, làm gia tăng sâu sắc hơn sự “phân cực” giữa các quốc gia ủng hộ Mỹ và những quốc gia có quan hệ kinh tế hoặc chính trị chặt chẽ với Trung Quốc. Nếu điều này xảy ra, sẽ rất dễ đẩy tình hình an ninh khu vực vào thế “đối đầu” nguy hiểm. Từ đó có thể làm suy yếu sự đoàn kết, thống nhất của các tổ chức khu vực trong các vấn đề quốc tế và khu vực, trong đó có ASEAN, nhất là sự đồng thuận của khối này trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc.

Ba là, cuộc chạy đua vũ trang mới ở khu vực sẽ trở nên bức thiết và “nóng bỏng”. Hiện nay, thế giới chứng kiến các cuộc chiến tranh ở Ucraines, ở Trung Đông, mới đây ở Ấn Độ và Pakisxtan với sự xuất hiện của các loại vũ khí, trang bị mới, hiện đại và rất hiệu quả như máy bay không người lái, tên lửa chính xác, vũ khí điện tử… Những nước đứng ngoài các cuộc chiến, xung đột trên không thể “bình chân như vại” mà không ít thì nhiều đã bắt tay vào “chạy đua vũ trang ngầm”. Trong đó có cả các nước khu vực Ấn – Thái bởi do lo ngại về sự gia tăng căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc, về những bất ngờ “khó đoán định” từ chính sách của Mỹ, về cả sự “khuyến khích” đồng minh tăng ngân sách quốc phòng từ Mỹ. Các quốc gia này buộc phải tăng ngân sách và chi tiêu quốc phòng, nghiên cứu phát triển, mua sắm vũ khí trang bị mới và hiện đại hóa quân đội. Điều này có thể dẫn đến một cuộc chạy đua vũ trang mới trong khu vực, tiềm ẩn nguy cơ đối với hòa bình và ổn định khu vực.

Bốn là, về kinh tế, căng thẳng gia tăng ở Biển Đông có thể gây ra những tác động tiêu cực đến thương mại và đầu tư trong khu vực, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia liên quan. Ngoài việc hai nước “chủ chòm” là Mỹ, Trung “gây sự” với nhau, các nước xung quanh Biển Đông sẽ có thể không chỉ gặp khó khăn trong quan hệ thương mại, đầu tư với hai quốc gia này mà còn có thể hứng chịu hậu quả từ những biện pháp trừng phạt trả đã lẫn nhau của hai nước này như trừng phạt kinh tế bằng thuế quan, cắt đứt chuỗi cung ứng hàng hóa và thậm chí là bao vây, ngăn chặn trên biển, cắt đứt tuyến giao thông biển quan trọng của thế giới qua Biển Đông.  

Năm là, tranh chấp pháp lý về Biển Đông tiếp tục căng thẳng. Mỹ và các đồng minh sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng của luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982 để làm cơ sở phản đối hành vi phi pháp, khiêu khích nguy hiểm của Trung Quốc bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mình ở Biển Đông. Song Trung Quốc đã và sẽ cho rằng, Mỹ không có cơ sở pháp lý để lên tiếng, can dự vào Biển Đông vì Mỹ không phải là một bên tranh chấp, hơn nữa không tham gia và phê chuẩn UNCLOS 1982. Thực chất là Trung Quốc muốn loại bỏ vai trò, lợi ích và sự can dự của Mỹ để dễ dàng thực hiện các yêu sách “chủ quyền phi pháp” của mình. Sự tranh chấp này khó đi đến “hồi kết” và sẽ khiến cho vai trò pháp lý quốc tế ở Biển Đông không thể phát huy đầy đủ hiệu quả.

Sáu là, bản thân phong cách lãnh đạo “khó đoán định” của ông D.Trump, nhất là thay đổi vào “phút chót” khi “thấy lợi cho quốc gia” sẽ dẫn đến những sự thay đổi đột ngột trong chính sách, “xem nhẹ” lợi ích nước khác kể cả đồng minh hoặc các tuyên bố bất ngờ của ông này cũng có thể làm gia tăng sự bất ổn trong khu vực.

Tóm lại, củng cố và bảo vệ vai trò, lợi cihs, vị thế “siêu cường” của Mỹ ở khu vực, các chính sách lâu nay kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc là mục tiêu không thay đổi của Mỹ. Do đó, Mỹ sẽ vẫn tiếp tục củng cố các liên minh đã có ở khu vực Ấn – Thái và thậm chí thiết lập liên minh mới khi cần để phục vụ mục tiêu trên. Với chính sách “nước Mỹ trên hết”, cùng với tính cách “khó đoán định” của mình, nên việc ông D.Trump sử dụng các “kịch bản” nào và phối kết hợp chúng ra sao để đối phó với Trung Quốc vẫn đang được “giấu kín”. Tương lai và hoạt động của các liên minh, các cơ chế nói trên sẽ như thế nào dưới thời D.Trump 2.0 vẫn là những ẩn số, chưa dễ có đáp áp ngay hiện nay. Ít nhất trên thực tế, cuộc tập trận Balikatan 2025 do Mỹ phối hợp đồng minh Philippines tiến hành từ ngày 21/4 – 09/5/2025 và những gì xảy ra trên Biển Đông gần đây cũng cho thấy Mỹ đang huy động các liên minh và Trung Quốc cũng đang hành động để đối phó. An ninh khu vực Biển Đông thời gian tới tiềm ẩn nhiều điều bất trắc, khả năng căng thẳng leo thang có thể kéo theo những thay đổi bất ngờ, khó lường hơn.

RELATED ARTICLES

Tin mới