Friday, December 5, 2025
Trang chủĐàm luậnSự thay đổi trong chính sách của Mỹvề Biển Đông khi đối...

Sự thay đổi trong chính sách của Mỹvề Biển Đông khi đối phó với các hoạt động trên biển của TQ những năm gần đây

Biển Đông đóng vai trò rất quan trọng trong tổng thể lợi ích của Mỹ. Gần 30% thương mại hàng hải thế giới đi qua Biển Đông hàng năm, trong đó mang lại gía trị thương mại hàng hải khoảng $1.2 nghìn tỷ cho Mỹ. Trước các hoạt động hung hăng nhằm củng cố các yêu sách phi pháp ở Biển Đông đe doạ trực tiếp đến các lợi ích của Mỹ ở khu vực, Mỹ đã có những chuyển biến sâu sắc trong chính sách của Mỹ để đối phó với Trung Quốc.

Cột mốc quan trọng trong sự chuyển biến về chính sách của Mỹ đó là dưới thời Tổng thống Obama khi tháng 7/2010, khi Ngoại trưởng Hillary Clinton trong phát biểu tại Diễn đàn ARF tại Hà Nội lần đầu tiên tuyên bố Mỹ có “lợi ích quốc gia” ở Biển Đông, các yêu sách về quyền lợi biển ở Biển Đông phải hoàn toàn dựa trên các yêu sách hợp pháp về lãnh thổ dựa trên đất liền (nguyên tắc đất thống trị biển), qua đó gián tiếp bác bỏ yêu sách “đường đứt đoạn” của Trung Quốc. Tháng 02/2014, Trợ lý Ngoại trưởng Daniel Russell khẳng định tuyên bố của Trung Quốc về quyền và lợi ích ở Biển Đông trên cơ sở đường chín đoạn không phù hợp với các nguyên tắc của luật quốc tế và Trung Quốc nên làm rõ hoặc điều chỉnh lập trường này.[1] Trên cơ sở đó, tháng 12/2014, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố báo cáo số 143 về Các đường ranh giới trên biển – Yêu sách biển của Trung Quốc ở Biển Đông, khẳng định các yêu sách biển của Trung Quốc ở Biển Đông không rõ ràng và không phù hợp luật pháp quốc tế.[2] Năm 2015, Trợ lý Ngoại trưởng Daniel Russell làm rõ thêm lập trường của Mỹ trong vấn đề Biển Đông, theo đó, Mỹ chỉ duy trì trung lập đối với các bên tranh chấp, chứ không trung lập về phương thức giải quyết tranh chấp, sẽ dốc sức ủng hộ tuân thủ luật pháp quốc tế. Cùng năm, Trợ lý Ngoại trưởng Daniel Russell cũng khẳng định Mỹ có quyết tâm kiên định nhằm tránh đối đầu quân sự với các nước ở Biển Đông, trong đó có Trung Quốc. Cũng trong năm 2015, Bộ Quốc phòng Mỹ công bố Chiến lược an ninh biển Châu Á – Thái Bình Dương, theo đó, xác định 03 mục tiêu biển chính ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: đảm bảo tự do biển cả;[3] ngăn chặn xung đột và các hành vi cưỡng chế; và thúc đẩy tuân thủ các chuẩn mực và luật pháp quốc tế.[4] Bộ Quốc phòng Mỹ do vậy cam kết đảm bảo tiếp cận tự do và rộng mở để bảo vệ trật tự kinh tế ổn định phục vụ lâu dài tất cả các quốc gia ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và duy trì khả năng của lực lượng Mỹ để ứng phó khi cần thiết. Năm 2016, Quan chức cấp cao Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ Daniel Britenbrink tuyên bố Mỹ có “lợi ích quốc gia tối cao” tại Biển Đông giống như Trung Quốc và các nước khác trong khu vực.


[1] Phát biểu của Daniel Russell trong Phiên điều trần ở Nghị viện ngày 5/02/2014

[2] Báo cáo số 143.

[3] Tự do biển cả là thuật ngữ chưa được định nghĩa trong luật quốc tế, nhưng có thể hiểu bao hàm không chỉ là tự do của các tàu thuyền thương mại đi qua các luồng hải hải quốc tế. Bộ Quốc phòng Mỹ sử dụng khái niệm “tự do hàng hải” theo nghĩa bao hàm tất cả các quyền, tự do và sử dụng biển và vùng trời phía trên, bao gồm cho cả tàu và máy bay quân sự như được thừa nhận của luật quốc tế.

[4] US Department of Defense, “The Asia-Pacific Maritime Security Strategy: Achieving U.S. National Security Objectives in a Changing Environment” https://dod.defense.gov/Portals/1/Documents/pubs/NDAA%20A-P_Maritime_SecuritY_Strategy-08142015-1300-FINALFORMAT.PDF

Dưới thời Tổng thống Trump, Mỹ có điều chỉnh mang tính bước ngoặt hơn nữa khi chính quyền Trump thể hiện quyết tâm trong việc kiềm chế Trung Quốc trên thực địa và ủng hộ đồng minh, đối tác trong vấn đề Biển Đông. Mỹ điều chỉnh lập trường đối với vấn đề pháp lý tại Biển Đông theo hướng rõ ràng, công khai hơn để bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Cụ thể Mỹ gửi 01 thư đến Tổng thư ký LHQ và HĐBA LHQ (01/6/2020), 01 tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Mike Pompeo (13/7/2020) và 01 Tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng (21/7), theo đó: (i) Phản bác các yêu sách biển của Trung Quốc, trong đó có yêu sách quyền lịch sử và yêu sách “Tứ Sa”, yêu sách các cấu trúc tại Trường SA và bãi Scarborough có vùng EEZ và TLĐ riêng, và yêu sách vùng biển tính từ các bãi ngầm hoặc bãi cạn lúc chìm lúc nổi; (ii) khẳng định Phán quyết Vụ kiện Biển Đông có giá trị cuối cùng và ràng buộc đối với Trung Quốc và Philippines, yêu cầu Trung Quốc tuân thủ và điều chỉnh các yêu sách phù hợp với luật pháp quốc tế (như thể hiện trong Công ước).

Dưới thời Tổng thống Biden, chính sách Biển Đông dưới thời Trump tiếp tục được kế thừa, song tập trung nhiều hơn vào việc hỗ trợ đồng minh, đối tác nâng cao năng lực nhằm đối phó với Trung Quốc. Tháng 01/2022, Mỹ tiếp tục công bố báo cáo Ranh giới trên biển số 150 đưa ra các lập luận pháp lý có hệ thống nhằm bác bỏ toàn diện các yêu sách biển của Trung Quốc ở Biển Đông, bao gồm yêu sách chủ quyền, yêu sách Tứ Sa, yêu sách quyền lịch sử. Trong năm 2022, Mỹ công bố Chiến lược an ninh quốc gia và Chiến lược quốc phòng quốc gia, theo đó tái khẳng định sẽ bảo đảm tự do đi lại và cách tiếp cận mở tại Biển Đông. Gần đây nhất, tháng 2/2024, Bộ trưởng Antony Blinken đã công bố tài liệu Cam kết lâu dài của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nhân kỷ niệm 2 năm công bố Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, theo đó, khẳng định cam kết của Mỹ trong việc ủng hộ nỗ lực của các đồng minh của Philippines trong việc thúc đẩy nhóm bạn bè thúc đẩy luật biển như được phản ánh trong UNCLOS, khẳng định Mỹ sẽ cùng đồng minh đối tác trong việc phản đối các hành vi quấy rối liên tục các tàu đang thực hiện quyền tự do hảng hải; khẳng định Mỹ sẽ thúc đẩy ngoại giao pháp lý mạnh mẽ để củng cố luật biển và trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, trong đó có gặp gỡ trao đổi với các chuyên gia luật biển quốc tế và công bố các nghiên cứu cụ thể về yêu sách biển trong loạt nghiên cứu về “Các đường ranh giới trên biển” của Bộ Ngoại giao Mỹ. [1]

Dưới thời Tổng thống Trump nhiệm kỳ lần 2, vẫn còn quá sớm để có thể đưa ra nhận định, đánh giá chính xác về chính sách Biển Đông của Tổng thống Trump trong nhiệm kỳ này. Tuy nhiên, các động thái gần đây của Mỹ về chính sách ngoại giao và trên thực địa cho thấy khả năng cao Mỹ sẽ tiếp tục kế thừa có chọn lọc chính sách Biển Đông của chính quyền tiền nhiệm. Tại phiên điều trần tại Thượng viện Mỹ và trong trả lời phỏng vấn báo chí (10/2/2025), Ngoại trưởng Rubio nhấn mạnh, Trung Quốc là đối thủ ngang cơ mạnh nhất và nguy hiểm nhất mà Mỹ phải đối mặt. Tại Hội nghị An ninh Munich (15/02/2025), Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth tuyên bố “ưu tiên của Mỹ là ngăn chặn chiến tranh với Trung Quốc ở Thái Bình Dương, cùng Nhật và Hàn Quốc ra tuyên bố chung phản đối các hoạt động đơn phương nhằm thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực hay cưỡng chế ở khu vực, nhấn mạnh cam kết duy trì vùng biển Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, đảm bảo luật quốc tế giữ vai trò chủ đạo, cùng các quốc gia G7 ra tuyên bố (15/02 và 14/03/2025) ra tuyên bố bày quan ngại sâu sắc về tình hình Biển Đông, phản đối các hành vi đơn phương vi phạm luật pháp quốc tế, lên án các hành vi tấn công nguy hiểm vào tàu thuyền của Philippines và Việt Nam. Đặc biệt so với thông điêp kêu gọi đối thoại và kiềm chế do cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austrin đưa ra tại Shangri-La 2024, Bộ trưởng Pêt Hegseth tại Shangri-La 2025 (31/5) thể hiện lập trường cứng rắn hơn, chỉ trích và tấn công trực diện các hoạt động đơn phương gây mất ổn định của Trung Quốc ở Biển Đông, cho rằng các hoạt động này thể hiện sự thiếu tôn trọng căn bản của nước này đối với các quốc gia láng giềng và thách thức chủ quyền, tự do hang hải và hang không, khẳng định Mỹ đang theo dõi sát sao các hoạt động gây bất ổn của Trung Quốc và bất kỳ nỗ lực đơn phương nào nhằm thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực hay cưỡng ép đều không thể chấp nhận được.

Đối với chiến thuật vùng xám, Mỹ cho rằng các hoạt động cưỡng chế theo chiến thuật vùng xám đe doạ các mục tiêu, lợi ích chiến lược của Mỹ.[2] Trước hết, các hoạt động cưỡng chế của Trung Quốc thách thức trật tự và chuẩn mực khu vực, do đó đe doạ tác động đến trật tự khu vực bằng việc thay đổi nguyên trạng thông qua các hoạt động trấn áp và vũ lực. Thứ hai, các hành vi hung hăng của Trung Quốc làm phóng đại hơn nguy cơ xung đột ngắn hạn. Thứ ba, Trung Quốc gây áp lực đối với các đồng minh, đối tác của Mỹ có thể làm suy giảm hệ thống tối ưu hoá mạng lưới các mối quan hệ song phương thông qua minh chứng rằng Mỹ không đủ năng lực và ý chí hay sự suy yếu trong mối quan hệ gắn kết đồng minh. Thứ tư, sự hung hăng hiếu chiến của Trung Quốc làm dấy lên quan ngại về việc thực hiện các quyền tự do hàng hải và tiếp cận kinh tế ở khu vực. Thứ năm, hành vi cưỡng chế của Trung Quốc có thể mang lại mối đe doạ cơ bản đối với trật tự khu vực ở Châu Á. Trong bối cảnh đó, việc kiểm soát sự trỗi dậy của Trung Quốc với tư cách là một cường quốc có thể được coi là thách thức chiến lược trọng yếu cho Mỹ và an ninh Châu Á nói chung.

Các hành vi cưỡng chế của Trung Quốc cũng được cho là đe doạ đến lợi ích kinh tế của Mỹ ở Châu Á. Việc duy trì và phát triển thịnh vượng ở khu vực cũng như sự rộng mở về kinh tế và dòng chảy thương mại tự do được xem là trọng yếu đối với sự phát triển kinh tế của Mỹ và thế giới. Như đã trình bày ở trên, gần 30% thương mại hàng hải thế giới đi qua Biển Đông hàng năm, trong đó mang lại gía trị thương mại hàng hải khoảng $1.2 nghìn tỷ cho Mỹ. Các lợi ích kinh tế của Mỹ ở khu vực sẽ không thể được đảm bảo nếu không có môi trường phát triển ổn định dựa trên các quy tắc và luật lệ mạnh mẽ và công bằng làm cơ sở cho các quốc gia cạnh tranh mà không dẫn đến xung đột. Do vậy Mỹ có lợi ích kinh tế lớn trong việc bảo vệ hệ thống trật tự dựa trên luật lệ ở khu vực này sẽ tiếp tục thực thi các chính sách và hoạt động trên thực địa để duy trì một khu vực Biển Đông tự do hàng hải, hàng không và thương mại không bị cản trở./.


[1] Antony Blinken, The United States’ Enduring Commitment to the Indo-Pacific: Marking Two Years Since the Release of the Administration’s Indo-Pacific Strategy (9/2/2024), https://www.state.gov/wp-content/uploads/2024/02/Indo-Pacific-Strategy-Second-Anniversary-Fact-Sheet.pdf

[2] Michael J. Green et al, “Countering Coercion in Maritime Asia: The Theory and Practice of Gray Zone Deterrence” (CSIS, 9/5/2017) tại https://www.csis.org/analysis/countering-coercion-maritime-asia

RELATED ARTICLES

Tin mới