Friday, December 5, 2025
Trang chủĐàm luậnCách mạng Tháng Tám năm 1945 và bài học vận dụng cho...

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và bài học vận dụng cho sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

Cách đây 80 năm về trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam đã cùng đứng lên, tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, làm nên thắng lợi “long trời, lở đất” trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên một nhà nước của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Năm tháng đã trôi qua, nhưng ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng này vẫn vẹn nguyên giá trị, nhất là đối với công cuộc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc hiện nay, cũng như trong tương lai.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa lịch sử to lớn, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước

Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một sự kiện trọng đại, có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khi toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc, đã đồng lòng đứng lên dưới ngọn cờ của Việt Minh để giành lại quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Đối với thế giới, thắng lợi của cuộc cách mạng trên là một đòn giáng mạnh vào hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi, Mỹ – Latinh. Nó đã chứng tỏ rằng, trong điều kiện quốc tế thuận lợi, các dân tộc bị áp bức hoàn toàn có khả năng tự giải phóng mình.

Cùng với ý nghĩa lịch sử lớn lao trên, Cách mạng tháng Tám năm 1945 còn để lại cho Đảng ta, dân tộc ta nhiều bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Trước hết, đó là bài học về nắm bắt thời cơ. Một trong những yếu tố then chốt dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là việc Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo dõi, đánh giá và nhận định đúng tình hình, chớp lấy thời cơ “ngàn năm có một”, khi phát xít Nhật đầu hàng quân đồng minh, tạo ra khoảng trống quyền lực trên đất nước ta, để huy động toàn dân cướp lấy chính quyền. Sự nhạy bén, quyết đoán trong việc phát động tổng khởi nghĩa đúng thời điểm đã giúp cách mạng giành thắng lợi nhanh chóng, triệt để và ít đổ máu. Đây là bài học kinh nghiệm quý báu đối với Đảng ta trong việc theo dõi, nắm bắt, phân tích, đánh giá tình hình một cách chính xác, khoa học để đưa ra quyết sách kịp thời, không bỏ lỡ thời cơ chiến lược trong quá trình lãnh đạo cách mạng.

Thứ hai, bài học về sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 không thể tách rời vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ra đời từ năm 1930, ngay từ đầu Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, biết tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Dù còn non trẻ, Đảng đã tận dụng thời cơ, phát động quần chúng, nhận được sự ủng hộ rộng rãi và giành chính quyền về cho nhân dân. Bài học này không chỉ có tác dụng riêng đối với thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, mà còn trở thành một vấn đề có tính quy luật, đó là sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Thứ ba, bài học về xây dựng lực lượng cách mạng. Có đường lối đúng là yếu tố đầu tiên trong phương thức lãnh đạo cách mạng của Đảng. Nhưng để biến đường lối đó thành hiện thực thì phải có lực lượng thực hiện. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công vang dội là nhờ có sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ngay từ khi Đảng ra đời. Theo đó, Đảng đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ trung kiên, có năng lực hoạt động cách mạng, đồng thời phát triển các tổ chức quần chúng rộng khắp, tạo nên một lực lượng chính trị hùng hậu. Cùng với đó, các đội quân vũ trang như Việt Nam Giải phóng quân, Cứu quốc quân đã được xây dựng và phát triển, đóng vai trò nòng cốt trong các cuộc khởi nghĩa từng phần và tiến tới tổng khởi nghĩa. Bài học này cho thấy, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay cũng như trong tương lai, cần phải chú trọng xây dựng lực lượng toàn diện, cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cả về lực lượng quần chúng và lực lượng vũ trang.

Thứ tư, bài học về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Đảng ta luôn coi trọng và ra sức chăm lo xây dựng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong cuộc cách mạng, Đảng đã thông qua Mặt trận Việt Minh tiến hành tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, thống nhất cùng chung một ý chí, giành độc lập, tự do. Sức mạnh của khối đại đoàn kết trên đã tạo nên một lực lượng vô cùng to lớn, đánh đổ ách thống trị của kẻ thù.

Thứ năm, bài học về kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã linh hoạt kết hợp các hình thức đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa. Sự kết hợp nhuần nhuyễn này đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn và bất ngờ, làm cho kẻ thù không kịp trở tay chống đỡ. Bài học này cho thấy, quá trình lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh, phù hợp với từng giai đoạn và điều kiện cụ thể của cách mạng.

Thứ sáu, bài học về giành và giữ chính quyền. Như V.I.Lênin đã dạy: “Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng” và chính ông cũng cho rằng “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Nhưng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ thành công trong việc giành chính quyền, mà còn thành công cả trong việc giữ vững chính quyền non trẻ trước sự chống phá điên cuồng của các đảng phái, các thế lực thù địch lúc bấy giờ. Đó là do trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã có sự kiên cường, mưu trí, sáng tạo và đoàn kết trong toàn Đảng và toàn dân tộc; đã nhanh chóng và khẩn trương xây dựng một chính quyền từ trung ương tới cơ sở thực sự là của dân, do dân và vì dân, được nhân dân ủng hộ tuyệt đối.

Vận dụng những bài học kinh nghiệm quý báu của Cách mạng tháng Tám năm 1945 vào công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc

Việt Nam là quốc gia ven biển, với bờ biển dài khoảng 3.260km, trải dài từ Bắc đến Nam. Được xác lập phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), nước ta có diện tích biển hơn 1 triệu km2, gấp ba lần diện tích đất liền. Trên vùng biển, đảo đó có hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hình thành nên những tuyến, lớp đảo từ xa đến gần, có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng – an ninh, là tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ đất nước từ hướng biển. Tuyến phòng thủ đó, kết hợp với các tuyến phòng thủ trên đất liền khác, hình thành thế trận hiểm hóc, làm tăng chiều sâu thế trận quốc phòng toàn diện của đất nước.

 Một số đảo ven bờ có vị trí thiết yếu được sử dụng làm các điểm cơ sở để vạch đường cơ sở quốc gia. Đường cơ sở này là căn cứ pháp lý để xác định phạm vi các vùng biển, bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, qua đó xác lập không gian thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên biển theo UNCLOS 1982.

Bên cạnh đó, do nằm trên Biển Đông – tuyến đường hàng hải huyết mạch của khu vực và thế giới, biển, đảo Việt Nam còn có vị trí địa lý và giá trị kinh tế quan trọng. Sự hình thành mạng lưới cảng biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa, kể cả với các nước láng giềng phía sau, cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyên chở hàng hóa xuất, nhập khẩu một cách nhanh chóng, thuận lợi. Đáng kể nhất, biển, đảo Việt Nam có tiềm năng tài nguyên rất phong phú, nhất là dầu mỏ, khí đốt. Dọc theo bờ biển nước ta có nhiều bãi triều, eo vịnh, đầm phá rất thuận lợi cho du lịch biển, đảo và nuôi, trồng thủy, hải sản có giá trị; thuận lợi cho xây dựng cảng biển, trong đó một số nơi có khả năng xây dựng cảng nước sâu quy mô lớn.

Có thể khẳng định, biển, đảo Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đây không chỉ là bộ phận cấu thành nên chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán thiêng liêng của Tổ quốc, mà còn là không gian sinh tồn và phát triển của các thế hệ người Việt Nam, đồng thời là nơi lưu giữ và phát triển các giá trị văn hóa biển Việt Nam.

Tuy nhiên, tình hình Biển Đông hiện nay đang diễn biến phức tạp, với các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và tranh chấp biển phức tạp; các hoạt động vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam liên tục diễn ra, đặt ra những thách thức rất lớn cho an ninh – quốc phòng và phát triển kinh tế Việt Nam. Để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, đòi hỏi phải vận dụng và phát huy hơn nữa giá trị lịch sử và những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong số những bài học đó, nên tập trung vào một số nội dung sau:

Một là, Đảng cần duy trì tầm nhìn chiến lược trong đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Tầm nhìn chiến lược có vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ giúp toàn Đảng và toàn xã hội thống nhất tư tưởng, hiểu rõ vị trí, vai trò đặc biệt của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước; mà còn giúp định hướng hành động đúng đắn phát huy hiệu quả ngọn cờ chính nghĩa, lẽ phải, công lý để giải quyết các vấn đề trên biển một cách hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, Đồng thời, tầm nhìn chiến lược giúp kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; giúp phát huy tổng hợp các nguồn lực trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển, đảo.

Tầm nhìn chiến lược trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc của Đảng nên bảo đảm những yếu tố sau:

1/ Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, quyền và lợi íc biển hợp pháp, chính đáng của đất nước, không khoan nhượng trước mọi hành vi xâm phạm;

2/ Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982;

3/ Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;

4/ Phát triển kinh tế biển bền vững gắn với việc đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng tiềm lực và thế trận phòng thủ biển, đảo vững chắc;

5/ Nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo. Đồng thời, tuyên truyền rộng rãi đối với cộng đồng quốc tế về chủ quyền hợp pháp của Việt Nam.

Hai là, cần nhạy bén trong nắm bắt và tận dụng thời cơ. Thời cơ ở đây được hiểu là thời cơ chính trị, quân sự, ngoại giao, pháp lý nhằm khẳng định và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình Biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp, việc theo dõi, nắm bắt tình hình thực địa, diễn biến quốc tế, đánh giá, nhận định, phát hiện thời cơ, qua đó linh hoạt tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, đưa ra quyết sách phù hợp, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, và củng cố vị thế Việt Nam trên trường quốc tế là vô cùng quan trọng. Gần đây, Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) chú trọng bổ sung chuyên gia luật biển quốc tế. Nếu Việt Nam không sớm có chiến lược đào tạo nhân lực bài bản, khả thi, sẽ khó có nhân lực chất lượng cao có kinh nghiệm và tầm vóc quốc tế để tham gia giải quyết hiệu quả tranh chấp chủ quyền biển, đảo. Nhận thức vấn đề này từ sớm, Đảng và Nhà nước đã chủ động từng bước xây dựng đội ngũ chuyên gia, do đó, hiện chúng ta đã có ứng viên phù hợp cho vị trí Thẩm phán ITLOS.  Đây là ví dụ tiêu biểu về tầm nhìn và tranh thủ thời cơ.

Ba là, thường xuyên chăm lo về xây dựng lực lượng cách mạng vững mạnh về mọi mặt. Để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, cần tiếp tục xây dựng lực lượng nòng cốt vững mạnh, bao gồm Hải quân, Cảnh sát biển, Kiểm ngư và các lực lượng dân quân tự vệ biển. Lực lượng này không chỉ cần được trang bị hiện đại, mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần yêu nước, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh. Đồng thời, cần phát huy vai trò của ngư dân, những người trực tiếp bám biển ngày đêm, vừa khai thác kinh tế biển vừa làm “tai, mắt” trong canh giữ biển, trời, là lực lượng quan trọng góp phần bảo vệ chủ quyền trên biển.

Bốn là, nâng cao hơn nữa việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sự nghiệp của toàn dân, do đó cần tiếp tục củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên “thế trận lòng dân” trên biển. Điều này bao gồm việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mọi tầng lớp nhân dân về chủ quyền biển, đảo; khuyến khích người dân bám biển, phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền; huy động sự ủng hộ, đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự nghiệp bảo vệ đất nước. Đặc biệt là phải có chính sách đãi ngộ phù hợp đối với những cá nhân, tập thể có đóng góp lớn vào sự nghiệp bảo vệ biển, đảo.

Năm là, kết hợp đấu tranh chính trị với năng lực phòng thủ quốc gia. Trong bối cảnh hiện nay, việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần kết hợp linh hoạt các hình thức đấu tranh, từ đấu tranh pháp lý, ngoại giao, kinh tế đến các biện pháp bảo đảm quốc phòng – an ninh. Ưu tiên giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhưng cũng không ngừng củng cố tiềm lực quốc phòng để sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống phức tạp, hiểm nguy. Chúng ta phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Tuy nhiên, đấu tranh ở đây không phải là “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với nhau, mà đấu tranh nhưng tránh xung đột, đối đầu, mắc mưu khiêu khích từ các thế lực thù địch; thực hành tư tưởng “thêm bạn bớt thù”, đối sách mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo, kiên quyết ngăn chặn kịp thời, không để đất nước bị động, bất ngờ, không để tình hình diễn biến phức tạp, dẫn tới các hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ biển, đảo, xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc. Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một mốc son chói lọi trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, để lại rất nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc và vô cùng quý giá đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói chung, công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay của đất nước nói riêng. Trước bối cảnh tình hình Biển Đông đã và đang có nhiều diễn biến phức tạp, việc vận dụng sáng tạo và linh hoạt những bài học này sẽ giúp Việt Nam củng cố sức mạnh tổng hợp, phát huy nội lực, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước./

RELATED ARTICLES

Tin mới