Friday, December 5, 2025
Trang chủBiển ĐôngBiến đổi khí hậu và khai thác quá mức đe dọa kinh...

Biến đổi khí hậu và khai thác quá mức đe dọa kinh tế biển Việt Nam

Ngân hàng Thế giới (World Bank) nhận định Việt Nam có lợi thế to lớn để phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên, thành quả kinh tế có thể bị xóa sổ nếu không có biện pháp ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và khai thác quá mức.

Tiềm năng khổng lồ của kinh tế biển Việt Nam
Kinh tế biển bao gồm các ngành và lĩnh vực kinh tế liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến biển, như thủy hải sản, vận tải biển, du lịch và năng lượng ngoài khơi.

Theo World Bank, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh rõ ràng về phát triển kinh tế biển.

Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260km, diện tích bề mặt biển hơn 1 triệu km vuông, gấp ba lần đất liền với trên 3.000 hòn đảo. Đường bờ biển giàu tài nguyên và cảnh đẹp đem lại cơ hội kinh tế trực tiếp cho khoảng hơn 50 triệu người dân của Việt Nam.

Các hoạt động kinh tế biển và ven biển đóng vai trò thiết yếu, có thể đem lại tăng trưởng vững chắc cho Việt Nam. Một số ngành kinh tế chủ chốt có thể kể đến như thủy hải sản, du lịch và điện gió ngoài khơi.

Trong thập kỷ qua, các ngành/lĩnh vực kinh tế biển đã tăng trưởng gần 9% mỗi năm, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.

Hiện nay, đóng góp của kinh tế biến cho nền kinh tế tổng thể của Việt Nam ước tính rơi vào khoảng từ 5,04% đến 5,83%. Kinh tế biển cũng đóng góp 8-9% cho tổng lực lượng lao động.

Dự báo đến năm 2030, giá trị kinh tế biển của Việt Nam có thể tăng gấp 3 lần so với năm 2020.

Đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu đạt được những tiến triển đáng kể trong 6 ngành/lĩnh vực kinh tế biển, đem lại đóng góp quan trọng ở mức 10% GDP. Các lĩnh vực đó được sắp xếp theo ưu tiên: 1) du lịch biển và các dịch vụ liên quan, 2) kinh tế hàng hải, 3) khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác, 4) đánh bắt và nuôi trồng thủy sản biển, 5) công nghiệp ven biển, và 6) năng lượng tái tạo.

Theo đó, sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản được dự báo tăng từ 3 triệu tấn năm 2020 lên 9,8 triệu tấn vào năm 2030. Chỉ tiêu về sản lượng dầu khí đến năm 2030 rơi vào khoảng 175–195 triệu tấn dầu tương đương, tăng đáng kể so với 68 triệu TOE ghi nhận cho năm 2020.

Công suất điện gió ngoài khơi dự kiến đạt 3.557MW vào năm 2030 từ mức 200MW của năm 2020. Vận tải đường thủy dự kiến vận tải hàng hóa từ 0,88 triệu tấn năm 2020 lên 1,14–1,42 triệu tấn vào năm 2030.

Biến đổi khí hậu, khai thác quá mức đe dọa thành quả
Tuy nhiều tiềm năng, nhưng kinh tế biển Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Theo World Bank, biến đổi khí hậu, tình trạng khai thác quá mức và năng lực quản lý còn hạn chế đang đặt kinh tế biển Việt Nam trước nguy cơ phát triển thiếu bền vững.

Nước biển dâng cao, cường độ bão mạnh, nhiệt độ biển gia tăng và sự thay đổi của các dòng hải lưu ảnh hưởng đến các ngành đánh bắt cá, nuôi trồng hải sản và du lịch ven biển. Trong khi đó, tình trạng bờ biển xói mòn và xâm nhập mặn đe dọa môi trường sống, cơ sở hạ tầng, làm ảnh hưởng đến sinh kế của hàng triệu người.

Theo thống kê, khoảng 11,8 triệu người dân ở các tỉnh duyên hải đang có nguy cơ ngập lụt gia tăng và trên 35% các khu định cư đang sinh sống ở các bờ biển bị xói mòn. Nguy cơ dễ tổn thương còn trầm trọng hơn bởi khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của nhiều vùng ven biển còn hạn chế.

Quá trình công nghiệp hóa vùng duyên hải của Việt Nam đã và đang đem lại tăng trưởng kinh tế, nhưng gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với môi trường. Việt Nam gần đây được cho là một trong 5 quốc gia gây ô nhiễm đại dương hàng đầu, ước tính thải hơn 0,28 – 0,73 triệu tấn rác thải nhựa ra đại dương mỗi năm.

Sự phát triển nhanh chóng của cảng biển, nhà máy và các dự án năng lượng dẫn đến ô nhiễm biển trên diện rộng như các sự cố tràn dầu và xâm nhập mặn, đe dọa cả về sinh kế của người dân ven biển và hệ sinh thái. Mặc dù Việt Nam đã thắt chặt các quy định về môi trường, nhưng công tác thực thi còn chưa đồng đều do những khó khăn nhằm bắt nhịp với tốc độ phát triển công nghiệp

Các sự cố ô nhiễm công nghiệp và tràn dầu vẫn là quan ngại lớn, khi các nhà máy thường xả thải hóa chất chưa xử lý, kim loại nặng và rác thải nhựa ra các dòng sông và vùng nước ven biển. Điển hình là vụ việc Formosa Hà Tĩnh vào năm 2016, khi xi-a-nua và phê-non bị xả thải ra đại dương của tỉnh, làm chết hàng triệu hải sản, khiến cho nghề cá bị lụi bại, thu nhập của địa phương giảm đến 46%.

Trong khi đó sự cố tràn dầu đang trở thành khủng hoảng lặp đi lặp lại, đưa Việt Nam trở thành một trong số năm quốc gia dễ bị ảnh hưởng nhiều nhất trong ba thập kỷ qua. Sự cố chìm 1.000 tấn dầu diesel tại vùng biển Diêm Điền, tỉnh Thái Bình năm 2022 đã phá hủy một vùng nuôi trồng thủy sản, xóa sổ nhiều héc ta trang trại nuôi ngao và làm gián đoạn sinh kế của gần 100 hộ gia đình.

Tình trạng khai thác quá mức khiến nguồn lợi thủy sản tự nhiên ngày càng suy giảm. Trong khi đó, nước ngầm bị khai thác quá mức để sử dụng trong nông nghiệp và công nghiệp làm gia tăng xâm mặn, làm ô nhiễm các nguồn nước ngọt quan trọng để dùng cho sinh hoạt và canh tác lúa.

Làm sao để phát triển bền vững?
Theo World Bank, với tốc độ tăng trưởng kinh tế biển nhanh chóng, yêu cầu cấp thiết là phải đảm bảo gìn giữ môi trường và công bằng xã hội.

Tại Việt Nam, các thông lệ bền vững trong kinh tế biển vẫn là khái niệm mới. Nếu không hành động kịp thời sẽ dẫn đến nguy cơ các hoạt động liên quan đến biển sau này sẽ đi theo con đường không bền vững.

Lộ trình phát triển kinh tế biển của Việt Nam đòi hỏi cách tiếp cận đa chiều, toàn diện.

Chính phủ đã thông qua các quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế biển, đồng thời Ủy ban Chỉ đạo Quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đã được thành lập, đánh dấu bước phát triển quan trọng hướng tới triển khai Nghị quyết số 36.

Tuy nhiên, điều quan trọng là cần có sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ ngành và địa phương, cũng như cải cách thể chế để huy động sự tham gia của các bên ngoài Nhà nước, nhằm thúc đẩy kinh tế biển tăng trưởng bền vững.

Một điều quan trọng nữa là các văn bản pháp luật hiện hành phải được thực thi hiệu lực chặt chẽ – thông qua theo dõi ô nhiễm theo thời gian thực và chế tài nghiêm ngặt đối với trường hợp vi phạm.

Đồng thời, đầu tư vào công nghệ xử lý nước thải tiên tiến và năng lượng tái tạo sẽ giúp giảm phụ thuộc vào các ngành công nghiệp gây ô nhiễm. Bên cạnh đó, tăng cường tiếng nói của cộng đồng trong hoạch định chính sách sẽ đảm bảo các nhóm yếu thế, như ngư dân và nông dân, không bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển.

T.P

RELATED ARTICLES

Tin mới