Kỳ III.
III. THỜI KỲ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ HAI :
– Ngày 15-8-1945 : Nhật Bản đầu hàng. Ngày 19-8, Việt Minh giành được chính quyền ở Hà Nội. Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh được thành lập ngày 22-8. Ngày 25-8 Hoàng đế Bảo Đại thoái vị, ngày 2-9, Hồ Chí Minh tuyên bố nền độc lập của Việt Nam và lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Nước Pháp chủ trương giành lại quyền kiểm soát Đông Dương.
– Ngày 28-2-1946 : Một Hiệp ước Pháp – Trung được ký ở Trùng Khánh cho phép Pháp thay thế quân đội Trung Quốc ở Bắc Kỳ.
Nhưng Chính phủ Hồ Chí Minh ký với các đại diện Pháp các Hiệp định ngày 6-3-1946. Theo Hiệp định, nước Pháp công nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa, thành viên của Liên hiệp Pháp.
Việc thi hành các Hiệp định ngày 6-3-1946 gặp vô vàn khó khăn. Từ tháng 12-1946, chiến sự mở rộng ra khắp nơi.
Nhưng Pháp đã sử dụng con bài một nhà nước Việt Nam gọi là “Quốc gia”, khuyến khích lập ra một chính phủ Việt Nam thứ hai được hợp thức hóa bởi các Hiệp định ngày 8-3-1949 và các Hiệp định 1954 đã tạo ra sự tồn tại của hai nước Việt Nam với việc chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương. Nhưng cuộc chiến tranh Việt Nam lại tiếp diễn cho đến khi thống nhất hai nước Việt Nam vào năm 1975.
– Đến 1947 : (Ngày 7-1, hay 13-1 tùy theo nguồn tin), lợi dụng tình trạng các đảo không có sự chiếm đóng của các nhà chức trách Pháp, Trung Quốc cho quân đội đổ bộ một lần nữa lên đảo Phú Lâm (Woody) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Chính phủ Pháp đã chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp đó là gửi một phân đội lính Pháp và Việt Nam đến đặt một đồn lính ở đảo Hoàng Sa.
– Chính phủ Trung Quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ 25-2 đến ngày 4-7-1947 ở Paris. Tại đây, Chính phủ Trung Quốc đã từ chối không chấp nhận việc nhờ trọng tài giải quyết do Pháp đề xuất. Ngày 1-12-1947, Tưởng Giới Thạch ký một sắc lệnh đặt các tên Trung Quốc cho hai quần đảo và đặt chúng thuộc lãnh thổ Trung Quốc.
– Năm 1948, những sự kiện ở Trung Quốc làm cho người ta chú ý đến tình hình các quần đảo.
Việc thiết lập chế độ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949 đã làm thay đổi rất nhiều môi trường quốc tế của cuộc tranh chấp.
-Tháng 4-1949 : Đổng lý văn phòng của Hoàng Đế Bảo Đại, Hoàng thân Bửu Lộc, tại một cuộc họp báo tại Sài Gòn đã công khai khẳng định lại các quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa.
– Tháng 4-1950 : Đồn lính do Trung Hoa dân quốc đặt trên đảo Phú Lâm đã được rút đi. Đơn vị lính Pháp vẫn được duy trì ở đảo Hoàng Sa. Ngày 14-10, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo. Tổng trấn Trung phần đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa.
Lúc đó dường như không có một sự có mặt nào về mặt quân sự ở quần đảo Trường Sa.
– Năm 1951 : Quần đảo Trường Sa trở thành đối tượng của các yêu sách trên lĩnh vực ngoại giao. Tổng thống Philippin, Quirino, đòi các đảo đó cho Philippin (17-5) với lập luận về tính kế cận. Ngày 24-8, Tân Hoa xã tranh cãi về các quyền của Pháp và những tham vọng của Philippin và những kiên quyết khẳng định quyền của Trung Quốc.
Từ mùa hè năm 1951 bắt đầu hình thành bản dự thảo một Hiệp ước hòa bình với Nhật Bản. Bản Hiệp ước sẽ được ký vào 8-9-1951. Trong đó, điều 2, đoạn 7 nêu:
“Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với các quần đảo Paracels và Spratleys”.
Được thông báo về bản dự thảo Hiệp ước, ngày 15-8- 1951, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Chu Ân Lai, ra bản
Tuyên bố công khai khẳng định tính lâu đời của các quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo.
– Tháng 9-1951 : Hội nghị San Francisco khai mạc. Trung Quốc đã không có mặt. Ông Gorse, tại Diễn đàn Hội đồng Liên hiệp Pháp, ngày 23-3-1952, khẳng định (coi là đáng tiếc) việc vắng mặt của Trung Quốc, cả hai phía Trung Quốc, ở Hội nghị này.
Ông Gromyko trong buổi họp toàn thể ngày 5-9, đưa ra 13 điểm bổ sung. Điểm thứ nhất dự kiến việc Nhật Bản công nhận chủ quyền của cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa “Trên các đảo Paracels và các đảo khác quá về phía Nam”. Điểm này đã bị bác bỏ với 48 phiếu trên 3.
Ngày 7-9 : Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của chính phủ Bảo Đại trịnh trọng tuyên bố hai quần đảo thuộc lãnh thổ của Việt Nam. Không có đại biểu nào bình luận về bản Tuyên bố này.
Không có một sự quy thuộc rõ ràng các đảo được thực hiện bằng thỏa thuận khi kết thúc hội nghị.
– Năm 1952 : Trong một cuộc hội thảo tại Hội đồng Liên hiệp Pháp, khi được yêu cầu cho biết ý kiến về Hiệp ước hòa bình với Nhật Bản, có nhiều tuyên bố đã được đưa ra, song đôi khi chúng mâu thuẫn với nhau:
– Ông Nguyễn Khắc Sử, báo cáo viên Ủy ban các quan hệ đối ngoại nhận xét rằng Nhật Bản từ bỏ tất cả mọi quyền đối với các quần đảo nhưng trong văn bản đã chẳng có một chữ nào nói đến sự quy thuộc sau này của chúng.
Ông nói thêm “Nhưng các đảo này đã từ lâu là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Chúng tôi dám hy vọng rằng trong các cuộc thương lượng sau này – trong thời gian không xa lắm,việc trả lại chúng theo luật sẽ được tiến hành với một tinh thần hiểu biết hữu nghị”.
Cũng trong cuộc tranh luận này, ông Gorse nhắc lại việc bản Hiệp ước đã loại Nhật Bản ra ngoài các lãnh thổ này nhưng lại không giải quyết vấn đề dứt khoát chuyển giao chúng về đâu. Và ông Bửu Kính nhắc lại quyền của Việt Nam sau khi Tổng thống ngoại giao Maurice Shuman đã khẳng định :
“Hoàn toàn đúng là các quần đảo Paracels và Spratleys thuộc lãnh thổ của Liên hiệp Pháp”.
Người ta thấy có sự mâu thuẫn sâu sắc giữa các luận điểm này với các điều nói ra ngày hôm sau, ngày 26-3- 1952, của Maurice Faure, báo cáo viên về luật phê chuẩn Hiệp ước, ông ta coi các đảo đó trở thành terra derelictae (đất đai bị từ bỏ).
Còn tiếp Kỳ IV.
Comments are closed.