Kỳ II
2. Về việc phái thuỷ quân đi “tuần tiễu” các đảo Nam Hải :
Các học giả Trung Quốc dẫn ra ba sự kiện để chứng
minh các sự kiện này. Đó là việc triều đình Bắc Tống “đặt dinh luỹ thuỷ quân tuần biển” ở Quảng Châu chép trong Vũ Kinh tổng yếu; việc viên tướng nhà
Nguyên đi qua “Thất Châu Dương, Vạn lý Thạch Đường” trên đường đi đánh Gia-Va
năm 1293 chép trong Nguyên Sử; việc
viên phó tướng Quảng Đông Ngô Thăng đi tuần ở Hải Nam năm 1710-1712 chép trong Tuyền Châu phủ chí.
Sự thật về ba sự kiện đó như sau :
– Về sự kiện triều đình Bắc Tống “đặt dinh luỹ thuỷ quân tuần biển”, Vũ Kinh tổng yếu chép rằng, quân Nam Hải
(thuộc Quảng Đông ngày nay) là đất Bách Việt xưa, đời Hán chia làm quận huyện,
đời Tống thành nơi đô hội, có mối lợi về buôn bán với nước ngoài, người Phiên
người Hán ở lẫn lộn, “sai quân nhà vua đến
trấn giữ, đặt dinh luỹ thuỷ quân tuần biển” ở cửa biển sau này.
Sau khi mô tả vị trí nơi đặt dinh luỹ thuỷ quân,
tác giả Vũ Kinh tổng yếu chép lộ
trình đường biển từ cửa biển Quảng Châu sang Ấn Độ Dương :
“Từ đồn Môn
Sơn dùng gió Đông đi về phía Tây nam 7 ngày đến Cửu Nhũ Loa Châu, đi ba ngày
nữa đến Bất Lao Sơn (Tác giả chú thích: “Thuộc nước Hoàn Châu”, nay là Cù Lao
Chàm), lại đi ba ngày nữa về phía Nam đến phía Đông Lăng Sơn (mũi Đại Lãnh).
Phía Tây Nam
nơi này là các nước Đại Thực (A Rập), Phật Sư tử (Sri-Lanka), Thiên Trúc (Ấn
Độ) không thể tính được hành trình” (quyển 20, tờ 19a-19b).
Tác giả Vũ
Kinh tổng yếu chép rõ hai ý khác nhau. Một là do thủ phủ quận Nam Hải thời
đó (nay là thành phố Quảng Châu) đã trở thành một thương cảng, người nước ngoài
(người Phiên) ở lẫn lộn với người Hán, nên vua Tống sai quân đến “trấn giữ” và cho đặt đồn thuỷ quân để “tuần tra”, bảo đảm an ninh cho nơi này.
Tác giả phụ chép lộ trình đường biển từ cửa biển Quảng Châu sang Ấn Độ Dương.
Các học giả Trung Quốc đã ghép hai ý trên với
nhau để biến lộ trình đường biển thành tuyến “tuần tra” của thuỷ quân Trung Quốc và giải thích địa danh “Cửu Nhũ Loa Châu” trên tuyến đường này
là “quần đảo Tây Sa” để từ đó nói rằng “Trung
Quốc đã phái thuỷ quân tuần tiễu quần đảo Tây Sa bắt đầu từ đời Tống”.[1]
Cách giải thích đó đưa đến hai điều phi lý :
– Nếu bảo lộ trình từ cửa biển Quảng Châu đi Ấn
Độ Dương là đường “tuần tiễu” của
thuỷ quân Trung Quốc, thì đoạn đường từ “Cửu
Nhũ Loa Châu” sang Ấn Độ Dương cũng đều thuộc phạm vi “tuần tiễu” của thuỷ
quân Trung Quốc và các nước “Đại Thực” (Ả Rập), “Sư Tử” (Sri-Lanka), “Thiên
Trúc” (Ấn Độ) cũng đều trở thành lãnh thổ Trung Quốc cả sao?
Nếu bảo “Cửu Nhũ Loa Châu” là “quần đảo Tây Sa”
thì theo lộ trình, từ đây đi ba ngày nữa về phía Tây Nam, nơi đến đâu có còn là
“Bất Lao Sơn” (Cù Lao Chàm) mà sẽ là ven biển cực Nam Trung Bộ ngày nay. Bởi
“Tây Sa” hầu như nằm trên cùng một vĩ tuyến với Cù Lao Chàm, theo hướng Đông
Tây.
Gán ghép câu chữ, lấy tên của địa danh nơi này để
gọi địa danh khác nhằm làm sai lạc sự thật lịch sử thì không thể được gọi là “bằng
chứng” chứng minh chủ quyền !
Về sự kiện viên tướng nhà Nguyên Sử Bật đi qua
các đảo Nam Hải trên đường đi xuống Gia-Va năm 1293, theo cách nói của học giả
Trung Quốc. Kỳ thật, đây là cuộc hành quân của quân Nguyên đi đánh Gia-Va năm
1293. Nguyên Sử chép : Vua Nguyên
(Hu-bi-lai) phán rằng “Yeheimishi (tên
viên tướng Mông Cổ) thông thạo đường biển lo mọi việc về biển. Còn việc binh
thì giao cho Sử Bật. Cho Bật giữ chức Phúc Kiến đẳng sứ Hành trung như tỉnh,
Bình chương chính sự, thống lĩnh quân xuất chinh” (quyển 17, tờ 61). Nguyên Sử cho biết “Tháng 12 Bật mang 5000 quân, hội chư quân, xuất phát từ Tuyền Châu
(cửa biển miền Nam Phúc Kiến), gió to sóng cả, thuyền chòng chành, quân sĩ mấy
ngày không ăn được, qua Thất Châu Dương, Vạn Lý Thạch Đường, đến (hải) giới
Giao Chỉ, Chiêm Thành (vùng biển ngoài khơi Quảng Nam-Đà Nẵng ngày nay). Tháng giêng năm sau (1923) đến đảo Đông
Đổng, Tây Đổng, Ngưu Kỳ Dữ, (vùng biển Cù lao Thù-Hòn Hải ngày nay) đi vào đại dương mênh mông, đóng quân tại các
đảo Ganlanyn, Kalimata, Goulan (các đảo ngoài khơi Gia-Va) đẵn gỗ đóng xuống để
đi vào (Gia-Va)…”. Nguyên sử còn cho biết sau cuộc chiến, khi trở về Bật đã
bị hàng tướng Gia-Va “làm phản”, Bật phải “chặn
phía sau, vừa đánh vừa đi, 300 dặm mới lên được thuyền (loại thuyền lớn) đi 68
ngày mới về đến Tuyền Châu, quân sĩ chết 3000 người” và chính vì vậy Bật đã
bị phạt “đánh 17 trượng, tịch thu một
phần ba gia sản” (quyển 162, tờ 7a, 7b).
Cuộc hành quân xâm lược như thế sao có thể giải
thích và hiểu là cuộc “tuần tiễu” của
thuỷ quân đời Nguyên ở Nam Hải?
Về sự kiện viên phó tướng Quảng Đông Ngô Thăng đi
tuần khoảng năm 1710-1712 chép trong Tuyền
Châu phủ chí (1780) cũng vậy. Phủ chí
chép rằng, sau khi nhậm chức ở Quỳnh Châu, Ngô Thăng đã có những cuộc tuần tiễu“từ Quỳnh Nhai qua Đồng Cổ, qua Thất Châu
Dương, tứ Chanh Sa, vòng quanh 3000 dặm, đích thân đi tuần, địa phương yên ổn”
(quyển 56, tờ 43a-43b).
Căn cứ vào địa danh chép trên tuyến đường tuần
tiễu thì cuộc tuần tiễu của Ngô Thăng chỉ diễn ra chung quanh đảo Hải Nam.
Bởi “Quỳnh Nhai” là thủ phủ Phủ Quỳnh Châu, phía Bắc đảo; “Đồng Cổ” là dải núi
(cao 339 mét) ở Mũi Đồng Cổ, Đông Nam đảo; “Tứ Canh Sa” là bãi cát
phía Tây đảo.
Cuộc tuần tiễu chung quanh đảo Hải Nam
sao có thể giải thích và hiểu là cuộc tuần tiễu quần đảo “Tây Sa”?
[1] Hàn Chấn
Hoa, sách đã dẫn trang 7 và 38