Ngay sau khi
Trung Quốc gửi Công hàm về yêu sách “đường lưỡi bò” lên Liên Hợp quốc
(7/5/2009) để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc chiếm đến 80 % diện tích Biển
Đông, Việt Nam và Malaysia đã có các biện pháp phản đối, năm 2010 đến lượt
Indonesia phản đối và gần đây nhất, ngày 05/04/2011, sau hai năm trì hoãn Philippine
cũng chính thức gửi Công hàm lên Liên Hợp quốc để phản đối yêu sách vô lý này.
Trung Quốc đã
phản ứng gay gắt khác thường trước hành động của Philippine, ngay lập tức,
Trung Quốc lên tiếng phản đối Công hàm của Philippine thông qua người phát
ngôn Bộ Ngoại giao cho rằng Công hàm này không thể chấp nhận được và ngày
14/04/2011 Trung Quốc đã gửi Công hàm đến Liên Hợp quốc, Bắc Kinh kết tội
Philippine là đã “xâm chiếm” Biển Đông của Trung Quốc một cách phi pháp,
do đó không có quyền đòi hỏi chủ quyền trên các khu vực đó. Bắc Kinh viện dẫn học
thuyết “ex injuria jus non oritur”, tức là quyền chính đáng không thể bắt nguồn
từ một hành động sai trái.
Tại sao Trung
Quốc lại tỏ thái độ quyết liệt với Philippine vào lúc mà Bắc Kinh đang có vẻ
hòa dịu sau khi quốc tế lên án về những yêu sách phi lý của Trung Quốc đối với
Biển Đông và ngay cả khi ba nước Việt Nam, Malaysia và Indonexia gửi Công hàm
phản đối yêu sách “đường lưỡi bò”, Trung Quốc cũng chỉ có phản đối thông qua người
phát ngôn Bộ Ngoại giao?
Theo một số
nhà phân tích, Trung Quốc hiện đang áp dụng chiến lược “chia để trị” cố hữu của
họ trên vấn đề Biển Đông, đối xử khác nhau với từng nước ASEAN có tranh chấp, để
dễ bề chia rẽ, khiến cho các nước khó tạo thành một khối thống nhất chống lại
Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc muốn chọn Philippine là mắt xích tương đối yếu
trong các nước yêu sách chủ quyền đối với Biển Đông để tiến hành mưu đồ của
mình.
Rõ ràng, việc tự vẽ “đường
lưỡi bò” không đáp ứng bất kỳ một tiêu chuẩn pháp lý hay kỹ thuật nào để yêu
sách chủ quyền các đảo trong đó rồi tiếp tục đòi hỏi các vùng biển liên quan là
sự cố tình áp dụng sai nguyên tắc “Đất thống trị biển”. Hơn nữa cũng
nên nhắc lại rằng Công hàm ngày 29/9/1932
của phái đoàn ngoại giao Trung Quốc tại Paris
còn tuyên bố các đảo Tây Sa (Hoàng Sa) “tạo thành cực nam của lãnh thổ
Trung Quốc”. Vậy làm sao có thể nói như trong Công hàm ngày 14/4/2011 là
“Từ những năm 30 của thế kỷ 20 đến
nay, Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần công bố phạm vi địa lý của quần đảo Nam
Sa và tên các thành phần của chúng“. Còn nói đến bằng chứng lịch sử và
pháp lý thì Việt Nam mới là quốc gia có những bằng chứng lịch sử và pháp lý về
hoạt động với danh nghĩa Nhà nước sớm nhất, thật sự và liên tục chủ quyền trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua “đội Hoàng Sa”, “đội Bắc Hải” và cả các thời kỳ sau này.
Điều mới đáng
chú ý trong Công hàm ngày 14/4/2011 là Trung Quốc nói rằng “Tây Sa” (Hoàng Sa)
và “Nam Sa” (Trường Sa) có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế nhằm bảo vệ
cho yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý của họ. Lập luận này của Trung Quốc hoàn toàn
không phù hợp với những quy định của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm
1982 vì các đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều không đủ điều kiện
tự nhiên cho đời sống, sinh hoạt của con người, không đủ điều kiện cho đời sống
kinh tế riêng. Lập luận này cũng ngược lại với ngay chính quan điểm của Trung
Quốc đối với các đảo ở Đông Hải.
Trường hợp tại
vùng biển Hoa Đông, Trung Quốc lại hành xử kiểu khác, ngày 6/2/2009, Trung Quốc
đã gửi công hàm phản đối hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa của Nhật Bản gửi Uỷ
ban Ranh giới thềm lục địa ngày 12/11/2008 về việc Nhật Bản đã lấy đảo đá
Okinotori làm điểm cơ sở để mở rộng thềm lục địa ở ba khu vực ngoài 200 hải lý
tại biển Hoa Đông. Lý do mà Trung Quốc đưa ra là đảo đá Okinotori không phải là
nơi cư dân có thể sinh sống, cũng không thể duy trì các sinh hoạt kinh tế. Như
vậy, lời nói và việc làm của Trung Quốc là bất nhất và mâu thuẫn. Một nước lớn
như Trung Quốc lại có thể viện dẫn luật pháp quốc tế một cách bất nhất vậy hay
sao. Để phục vụ cho mưu đồ của mình, Trung Quốc đã bất chấp tất cả, kể cả luật
pháp quốc tế cũng như thể diện nước lớn của mình.
Cũng nên nhắc lại
Công hàm ngày 8/7/2010 của Indonesia, một nước không tranh chấp gì ở Biển Đông
đã đưa ra những bằng chứng về quan điểm chính thống của các đại diện Trung Quốc
về quy chế của các đảo đá không người ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng tại
các diễn đàn quốc tế: Tuyên bố của Trưởng đoàn nước Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa, Ngài Đại sứ Chen Jinghua, tại Phiên họp thứ 15 của Cơ quan quyền lực đáy đại
dương (ISBA) ở Kingston, Jamaica vào tháng 6/2009 nhấn mạnh
rằng “Yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ các đảo đá […] là điểm
cơ bản liên quan đến các nguyên tắc quan trọng của Công ước và lợi ích tổng thể
của cộng đồng quốc tế”. Ngài Đại sứ tiếp tục với việc viện dẫn tuyên bố của Đại
sứ Arvid Prado của Malta để lời tuyên bố của mình thêm sức mạnh rằng “nếu quyền
tài phán 200 hải lý có thể được dựa trên cơ sở quyền sở hữu các đảo rất nhỏ,
không người sinh sống và xa xôi thì hiệu quả của việc quản lý quốc tế đối với
vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia sẽ bị tổn hại nặng nề”; Tuyên bố của
đoàn Trung Quốc tại Cuộc họp thứ 19 các Quốc gia thành viên của Công ước luật
biển (SPLOS) được tổ chức tại New York từ ngày 22 – 26/6/2009, nhắc lại rằng
“theo Điều 121 Công ước luật biển, các đảo đá không thích hợp cho con người đến
ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hay
thềm lục địa”. Những lời tuyên bố này chỉ có thể được hiểu: các đảo đá nhỏ
không người ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng trong Biển Đông cũng không
có quyền được có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc cho phép sử dụng
các đảo đá không người ở, ở xa lục địa và nằm giữa biển như điểm cơ sở để đòi hỏi
các vùng biển là tổn hại các nguyên tắc cơ bản của Công ước luật biển cũng như
xâm phạm đến các quyền lợi chính đáng của cộng đồng quốc tế. Công hàm của Indonesia kết
luận bản đồ “đường lưỡi bò” trong Công hàm ngày 7/5/2009 của Trung Quốc rõ ràng thiếu cơ sở
pháp lý quốc tế và đi ngược lại với các quy định của Công ước Luật biển 1982.
Theo thực tiễn
quốc tế và các phán quyết của các Tòa án và Trọng tài quốc tế nếu áp dụng đúng
điều 121.3 của Công ước Luật biển 1982 thì các đảo đá có những điều kiện tương
tự như các đảo đá trong Biển Đông chỉ được hưởng các vùng biển từ 500m đến tối đa
là 12 hải lý.
Công hàm Trung Quốc
kết tội Philippine đã “xâm lược” các đảo và đá của quần đảo “Nam Sa”
thuộc Trung Quốc nên không thể viện dẫn nguyên tắc “Đất thống trị biển”
để đòi hỏi quyền chủ quyền đối với các vùng biển kế cận. Cộng đồng quốc tế sẽ nực
cười khi nghe thấy nước nhỏ yếu hơn Trung Quốc rất nhiều lại đi “xâm lược” lãnh
thổ của Trung Quốc. Theo định nghĩa của luật quốc tế, xâm lược là một hành vi sử
dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Như vậy, chính việc Trung Quốc sử dụng vũ lực
chiếm đóng bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa 1974, đánh chiếm một số bãi đá thuộc
quần đảo Trường Sa năm 1988 của Việt Nam và đảo Vành Khăn do Philippine đang
chiếm giữ năm 1995 thì mới là hành động xâm lược.
Công hàm ngày
14/4/2011 của Trung Quốc có tính răn đe, cứng rắn, Công hàm cho người đọc hiểu
rõ thêm về sự tuỳ tiện trong lời nói và việc làm của Trung Quốc, về bộ mặt thật
của nước CHND Trung Hoa luôn lớn tiếng nói rằng họ thi hành chính sách “láng giềng
thân thiện” với các nước xung quanh. Điều này càng làm cho các nước ASEAN đoàn
kết với nhau hơn trong vấn đề Biển Đông, thể hiện rõ qua hội nghị cấp cao các nước
ASEAN đầu tháng 5 tại Indonexia. Đúng là “gậy ông đập lưng ông”.
Lê Luận