BienDong.Net: Bộ VH,TT&DL đã cho phép tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học VN khai quật tại khu vực bãi cọc Yên Giang, phường Yên Giang và khu vực cánh đồng thuộc phường Hải Yến thuộc thị xã Quảng Yên từ ngày 15.10 đến 3.11 với diện tích khai quật 200 m².
Bãi cọc Yên Giang, người dân quen gọi là “Bãi cọc Bạch Đằng”, được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1988. Đây được nhận định là một phần của trận địa cọc trên sông Bạch Đằng do Trần Hưng Đạo xây dựng để tham gia vào trận chiến Bạch Đằng năm 1288.
Một phần còn lại của Bãi cọc Bạch Đằng xưa
Theo TS Tống Trung Tín và TS Lê Thị Liên, các kết quả nghiên cứu trong vòng 25 năm, đặc biệt là từ năm 2009 đến nay đã đưa đến nhiều thông tin quý báu về di tích bãi cọc Bạch Đằng. Hai nhà khoa học này cho rằng cùng với bãi cọc Yên Giang, việc phát hiện thêm các bãi cọc mới ở cánh đồng Vạn Muối và cánh đồng Má Ngựa (xã Nam Hòa, Yên Hưng) cũng như địa hình, địa mạo chiến trường nơi diễn ra cuộc thủy chiến xưa kia đã cung cấp những bằng chứng có sức thuyết phục cao về chiến lược và chiến thuật mà danh tướng Trần Hưng Đạo đã sử dụng.
Nhận diện địa hình trận Bạch Đằng
Theo TS Tín và TS Liên, qua các công trình nghiên cứu từ năm 1988, người ta đã có được những hiểu biết cơ bản về địa hình, địa mạo và thủy văn vùng chiến trường Bạch Đằng. Có thể thấy nó bao gồm một vùng rộng lớn từ núi U Bò đến ghềnh Cốc, dài chừng 5km, rộng chừng 2 – 4 km, tính từ bờ tây sông Bạch Đằng sang khu vực có các bãi cọc đồng Vạn Muối và đồng Má Ngựa ở đảo Hà Nam.
Nghiên cứu cho thấy sông Bạch Đằng xưa là hết sức rộng lớn và hiểm trở. Khi nước triều lên, cảnh quan khu vực sóng nước mênh mông hùng vĩ xen kẽ các chỏm đá vôi cao vút đúng như Trương Hán Siêu – môn khách của Trần Hưng Đạo, mô tả trong “Bạch Đằng giang phú”: “Bát ngát sóng kình muôn dặm/Thướt tha đuôi trĩ một màu/Nước trời một sắc/Phong cảnh ba thu”…
Những bãi cọc phát hiện được gần đây cho thấy Trần Hưng Đạo đã tận dụng tối đa địa hình tự nhiên này và tính toán để chặn được tất cả những lối thoát có thể theo các dòng chảy này, mà chốt chặn xa nhất hiện biết về phía nam là bãi cọc đồng Má Ngựa.
Nghệ thuật đóng cọc gỗ trên sông Bạch Đằng
Việc khai quật và nghiên cứu các bãi cọc Bạch Đằng cho thấy: Ở di tích Yên Giang, hàng ngàn cọc đã được phát hiện. Trong các hố khai quật, ít nhất 43 cọc đã được lấy lên. Nhiều cọc được bảo tồn trong hố trưng bày tại chỗ, một số cọc hiện nay còn nhìn thấy trong các hồ nuôi cá. Bãi cọc đã xuất lộ có diện tích 115/120 x 20/25 m (khoảng 3000 m2), chạy theo chiều đông bắc – tây nam. Phần lớn các cọc được cắm thẳng đứng vào lớp phù sa màu hồng, cách nhau chừng 1 m. Khi nghiên cứu độ mớn nước của thuyền chiến Nguyên và quy luật thủy triều trên sông Bạch Đằng, các cọc ở khu vực khai quật được cho là để làm hẹp dòng sông và chặn thuyền quân Nguyên vào lúc nước triều cao nhất. Khi nước triều xuống thấp nhất, các cọc sâu hơn ở lòng sông có thể đã tham chiến, nhưng hiện nay chúng đã mất hoặc chưa xác định được.
Việc khảo sát và khai quật khu di tích bãi cọc đồng Vạn Muối đã xác định phạm vi phân bố của các cọc hiện còn trong khu vực có chiều bắc – nam là hơn 150 m và chiều đông – tây là hơn 40 m (khoảng hơn 6000 m2), phát triển về phía nam doi đất cao Đồng Cốc. Tuy nhiên, có thể nói rằng diện tích và số lượng cọc còn lại có khả năng lớn hơn nhiều, mà do mức nước sâu nên chúng ta khó có thể phát hiện hết bằng phương pháp khảo sát trên bề mặt. Có khả năng chúng được xây dựng nhằm thu hẹp dòng chảy này và tạo chướng ngại vật cho vùng bãi lầy trên đảo Hà Nam.
Kết quả khảo sát và khai quật di tích đồng Má Ngựa cộng với các dữ kiện hiện biết cho thấy bãi cọc còn lại có quy mô khoảng 70 m theo chiều đông tây, 30 m theo chiều bắc – nam (khoảng 2.100 m2). Kết quả khảo sát và khoan thăm dò cho thấy địa hình khu vực này gồm nhiều gò đá, là sự tiếp tục của ghềnh Cốc trên sông Bạch Đằng, xen lẫn với các dòng chảy lớn nhỏ.
Mặc dù các bãi cọc đều không còn nguyên vẹn, nhưng với các kết quả nghiên cứu mới nhất từ đồng Vạn Muối và đồng Má Ngựa, có thể thấy các bãi cọc được tổ chức rất khoa học. Các cọc lớn (đường kính 20 – 30 cm) thường được sử dụng ở khu vực có dòng chảy (lòng các sông nhánh nhỏ), cắm đứng vào lớp cát bùn đáy sông. Các cọc nhỏ hơn (phổ biến có đường kính 8 – 15 cm) thường được đóng ven bờ, trong bãi triều, theo nhiều hướng khác nhau, nhưng thường là hướng ngược với dòng chảy. Các cọc ven bờ thường bố trí thành cụm, có hướng ngược nhau hoặc ken thêm cọc nhỏ dưới chân. Các cụm cọc được bố trí dích dắc (đồng Vạn Muối) hoặc tạo thành một dãy tường thành dày đặc (đồng Má Ngựa). Gỗ sử dụng gồm nhiều loại. Các cọc lớn đóng trong lòng sông có thể đã sử dụng gỗ tứ thiết (đinh, lim, sến, táu).
Theo các nhà nghiên cứu, cả 3 bãi cọc đã phát hiện đều cho thấy quy mô rất rộng lớn, có tính chất phòng thủ chiến lược cao, được bố trí ở những vị trí rất hiểm yếu, vừa có khả năng thu hẹp các dòng chảy, vừa phối hợp với các ghềnh đá tạo vật cản cho thuyền và gây khó khăn cho tác chiến trên bờ, trong trường hợp đổ bộ. Ngược lại, rõ ràng lối bố trí dích dắc và tạo thành rào cản ở một số vị trí có tác dụng hỗ trợ các thuyền nhỏ và quân bộ của Đại Việt.
Với một trận địa được bố trí tài tình như vậy, nhà Trần đã tính toán rất chính xác để đón lõng được thuyền quân Nguyên. Chúng hoặc sẽ phải chen chúc vào khu vực giữa dòng sông đã bị thu hẹp và vướng các ghềnh đá hoặc bị đẩy vào những cái bẫy đã đặt ra.
Trận thủy chiến trên dòng sông lịch sử Bạch Đằng cho thấy nghệ thuật quân sự, ý chí độc lập chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam
Dòng sông Bạch Đằng đã đi vào lịch sử của dân tộc như một chứng tích cho thời kì lịch sử giữ nước hào hùng của dân tộc. Bạch Đằng giang gắn liền với ba trận thủy chiến đại thắng vào các năm 938, 981 và 1288.
Trận đánh đầu tiên diễn ra vào năm 938. Quân dân Việt Nam, thời đó gọi là Tĩnh Hải quân và chưa có quốc hiệu chính thức do Ngô Quyền lãnh đạo đã dùng kế cắm cọc trên sông Bạch Đằng đánh quân Nam Hán. Hàng nghìn cây gỗ lim, sến đầu được vạt nhọn và bịt sắt cắm xuống hai bên bờ sông thành những hàng dài chắc chắn, đầu cọc hướng chếch về phía nguồn. Khi triều rút các hàng cọc mới phơi ra, còn lúc sáng sớm nước mênh mông thì thuyền lớn qua lại hai bên bờ vẫn dễ dàng. Trận chiến diễn ra, cả đoàn binh thuyền lớn của quân Nam Hán đã bị dồn vào thế trận do ta bố trí sẵn và bị tiêu diệt trong thời gian ngắn. Toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm xuống biển, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, chủ soái Lưu Hoằng Thao bị giết tại trận. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là một trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam, đánh dấu cho việc chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc, tạo điều kiện xây dựng một quốc gia độc lập hoàn toàn.
Đầu năm 981, quân Tống tiến vào nước ta theo hai đường thủy bộ. Lê Hoàn đã trực tiếp đứng ra tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến. Trận thủy chiến lần thứ 2 trên sông Bạch Đằng dưới sự chỉ huy của Lê Hoàn đánh bại quân Tống xâm lược lần thứ nhất.
Trận thủy chiến thứ ba diễn ra trên dòng sông lịch sử Bạch Đằng vào năm 1288. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân xâm lược Nguyên trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 3.
BDN (theo báo chí quốc nội)