Friday, November 15, 2024
Trang chủGóc nhìn mớiCó phải Việt Nam "thiệt thòi" vì phán quyết vụ kiện trọng...

Có phải Việt Nam “thiệt thòi” vì phán quyết vụ kiện trọng tài Biển Đông?

Những lập luận của Tòa đã khiến chúng ta phải soi lại mình để có những hiệu chỉnh cho phù hợp ngay từ trong nhận thức về những khái niệm cơ bản.

Trước khi bồi đắp, xây dựng đảo nhân tạo bất hợp pháp ở Vành Khăn, Trung Quốc đã xây dựng một tiền đồn quân sự bê tông cốt thép kiên cố bất hợp pháp tại đây. Ảnh: Internet.

Sau khi Hội đồng Trọng tài (còn gọi là Tòa Trọng tài) 5 thành viên thành lập theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982 ra phán quyết vụ kiện trọng tài Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc, dư luận quốc tế cũng như trong nước đã rất hân hoan, vui mừng phấn khởi chào đón thắng lợi vĩ đại của luật pháp quốc tế, của UNCLOS 1982, của công lý và lẽ phải ở Biển Đông.

Bên cạnh “đường lưỡi bò” đã bị cắt bởi lưỡi dao công lý sắc bén và nhận được sự tán đồng, đánh giá cao từ dư luận, phán quyết của Tòa Trọng tài về các cấu trúc địa lý ở Trường Sa và hiệu lực pháp lý của chúng nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận, bởi nó liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam.

Cá nhân người viết đã nhận được những câu hỏi, thắc mắc băn khoăn về quyền lợi của đất nước ở Trường Sa sau phán quyết này sẽ ra sao?

Có những quan điểm lo ngại rằng, việc Tòa Trọng tài phán quyết không thực thể nào ở Trường Sa có đủ điều kiện hưởng quy chế vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Điều 121, UNCLOS 1982, vậy thì những thực thể chúng ta vẫn quen gọi là “đảo” lâu nay có còn là “đảo”, hay phải gọi là “đá”?

Việc hai bãi Vành Khăn và Cỏ Mây được Tòa Trọng tài phán quyết rằng chúng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines có ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Việt Nam đối với Trường Sa nói chung, hai thực thể này nói riêng?

Chính những lo ngại này do hiểu biết, nhận thức chưa đúng, chưa đủ và chưa thấu đáo về các quy định của UNCLOS 1982 và phán quyết trọng tài đã làm không ít người cho rằng Việt Nam “thiệt thòi”, “mất quyền lợi” vì phán quyết của Tòa Trọng tài.

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin làm rõ các khía cạnh pháp lý của các cấu trúc địa lý ở Trường Sa để chúng ta cùng có cái nhìn chuẩn xác về UNCLOS 1982, quyền và lợi ích hợp pháp về hàng hải của chúng ta ở Trường Sa đến đâu.

Những khái niệm cần làm rõ sau phán quyết trọng tài Biển Đông

Một là, UNCLOS 1982 quy định chiều rộng lãnh hải tính từ đường cơ sở là “tối đa không quá 12 hải lý”. Như vậy phải thấy rằng, lãnh hải có thể có bề rộng 12 hải lý, có thể nhỏ hơn 12 hải lý chứ không phải chỉ là 12 hải lý.

Vì vậy mới có quy định chiều rộng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo quy định của UNCLOS 1982  “tính từ đường cơ sở là 200 hải lý” chứ không phải chỉ là 188 hải lý hay thềm lục địa mở rộng tính từ đường cơ sở là ” không quá 350 hải lý”.

Hai là, thế nào là “đảo”, thế nào là “đá” theo UNCLOS 1982, bởi khi Tòa phán quyết rằng, tất cả các thực thể ở Trường Sa cũng như toàn bộ quần đảo với tư cách một thực thể thống nhất không thể tạo ra vùng biển vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý đã khiến dư luận rất băn khoăn.

Vậy lâu nay những thực thể chúng ta vẫn gọi là “đảo” phải chăng sau phán quyết phải đổi tên thành “đá”?

Hiểu như vậy là máy móc và sai bản chất quy định trong Điều 121, UNCLOS.

Điều 121, UNCLOS 1982 về “Chế độ đảo” quy định: 

1. Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.

2. Với điều kiện phải tuân thủ Khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác.

3. Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.

Như vậy, theo quy định của UNCLOS 1982 thì chỉ có 2 khái niệm: một là “đảo”, cấu thành một cách tự nhiên bởi  đất, đá, rạn san hô, cát, sỏi…phải luôn luôn nổi lên trên mặt nước khi thủy triều lên cao nhất.

Hai là các thực thể địa lý không phải là đảo, bất kể là đất, đá, san hô, cát sỏi …, nếu chúng lúc nổi lúc chìm hay chìm hoàn toàn theo mực nước thủy triều.

Về quy chế pháp lý, Khoản 3, Điều 121, UNCLOS 1982 đã quy định rất rõ hiệu lực khi xác lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của chúng:

Đảo nào thích hợp cho đời sống của con người và có đời sống kinh tế riêng thì có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Còn đảo nào không thích hợp cho người sinh sống và không có đời sông kinh tế riêng thì chỉ có lãnh hải không quá 12 hải lý, không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. 

Nói cách khác, “đá” trong Điều 121, UNCLOS 1982 là một tính chất để phân loại vùng biển hiệu lực pháp lý của một đảo, chứ không phải tên gọi một loại thực thể có vai trò tương đương “đảo”.

Bản thân tên Điều 121 là “Chế độ đảo” chứ không phải là “Chế độ đảo và đá” cũng đã cho thấy rõ điều này.

Ngoài ra, các thực thể không phải là đảo, nếu tồn tại cách bờ biển đất liền hay một đảo dưới 12 hải lý, thì có thể sử dụng để làm điểm cơ sở để vạch đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải cho bờ biển đất liền hay đảo đó.

Tuy nhiên điều kiện để các thực thể này được dùng làm điểm vạch đường cơ sở tính chiều rộng lãnh hải là, phải xây dựng trên đó một công trình nhân tạo nổi.

Còn nếu chúng ở cách bờ biển đất liền hay một đảo trên 12 hải lý thì không được sử dụng làm điểm cơ sở để vạch đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

Các công trình nhân tạo, kể cả là đảo nhân tạo được xây dựng trên đó chỉ được phép xác lập một vùng an toàn bán kính 500 m bao quanh các công trình nhân tạo đó.

Như vậy không có chuyện Việt Nam “chịu thiệt” vì phán quyết trọng tài của Tòa. Trường Sa, Nam Yết, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Ba Bình, Thị Tứ…vẫn là đảo đúng nghĩa theo khái niệm, quy định tại Khoản 1, Điều 121, UNCLOS 1982.

Việc không có đảo nào  trong quần đảo Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa vì không thực thể nào đáp ứng được điều kiện tại Khoản 3, Điều 121, UNCLOS 1982 về khả năng duy trì đời sống của con người hay có đời sống kinh tế riêng như phần giải thích không thể rõ ràng hơn nữa trong phán quyết của Tòa như dưới đây.

Ba là, thế nào là “có thể duy trì sự sống của con người hay có đời sống kinh tế riêng”? Điều này Phán quyết Tòa Trọng tài đã giải thích rõ như sau:

“Toà Trọng tài xem xét đến quyền hưởng các vùng biển và quy chế của các cấu trúc. Trước tiên, Toà tiến hành đánh giá liệu một số bãi do Trung Quốc yêu sách có nổi khi thuỷ triều lên đỉnh hay không.

Các cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao sẽ tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý trong khi các cấu trúc chìm khi thuỷ triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy.

Toà nhận thấy rằng các bãi này đã bị làm biến đổi mạnh mẽ do việc bồi đắp, xây dựng và Toà cũng nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của chúng và dựa vào các tài liệu lịch sử để đánh giá các cấu trúc.

Sau đó, Toà tiến hành đánh giá liệu các có cấu trúc nào trong số các cấu trúc do Trung Quốc yêu sách có thể tạo ra vùng biển ngoài phạm vi 12 hải lý không.

Theo Công ước, các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa nhưng các “đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.

Toà kết luận rằng quy định này phụ thuộc vào khả năng khách quan của các cấu trúc khi chúng ở tình trạng tự nhiên để có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có tính chất khai thác.

Toà cũng nhận thấy rằng sự có mặt của các nhân viên công vụ trên các cấu trúc là phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và không phản ánh khả năng của các cấu trúc.

Toà cũng thấy rằng các bằng chứng lịch sử có ý nghĩa hơn và nhận thấy quần đảo Trường Sa trong lịch sử được sử dụng bởi một số nhóm nhỏ các ngư dân và rằng đã có một vài hoạt động khai thác phân dơi và đánh cá của Nhật Bản. 

Toà kết luận rằng việc việc sử dụng ngắn hạn như vậy không phải là sự định cư của một cộng đồng ổn định và rằng các hoạt động kinh tế trong lịch sử chỉ là hoạt động mang tính khai thác.

Theo đó, Toà kết luận rằng không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng. Toà cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất.”

Bốn là, về Vành Khăn và Cỏ Mây

Có thêm một lưu ý khi tiếp cận nội dung Phán quyết, đó là: 

“Toà nhận thấy có thể không cần phải phân định ranh giới biển mà vẫn có thể tuyên bố rằng một số vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi-líp-pin vì không bị chồng lấn với bất cứ quyền được hưởng vùng biển nào mà Trung Quốc có thể có.”

Như vậy sẽ có người đặt câu hỏi Vành Khăn, Cỏ Mây là những rặng san hô, bãi cát ngầm ngập hoàn toàn dưới mặt nước biển được Tòa xác định là nằm trong vùng đặc quyền kinh tế theo đề nghị của Philippines có ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Việt Nam với Trường Sa nói chung, hay 2 thực thể này nói riêng hay không?

Theo người viết, Tòa đã nói rất rõ: Phán quyết của Tòa không giải quyết vấn đề chủ quyền / phân định biển. 

Vậy có thể hiểu là, riêng vấn đề chủ quyền đối với Vành Khăn, Cỏ Mây thì Tòa không ra phán quyết, mà sẽ được các bên liên quan giải quyết về vấn đề chủ quyền lãnh thổ theo nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ.

Lúc đó sẽ phải chứng minh Vành Khăn và Xu Bi về mặt địa chất, địa mạo là một phần của Trường Sa hay một phần thềm lục địa của Philippines.

Bởi khi xác lập chủ quyền hợp pháp đối với Trường Sa từ khi quần đảo này còn là đất vô chủ, nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ đã xác định rõ, quần đảo này bao gồm “các đảo và các thực thể phụ thuộc”.

Cần nghiên cứu kỹ các khái niệm pháp lý để tránh sai lầm, trục lợi

Nội dung thứ 2 trong Phán quyết của Tòa Trọng tài đã phân tích, giải thích cặn kẽ, cụ thể và rất thuyết phục về giá trị hiệu lực của các thực thể địa lý trong Biển Đông để sử dụng cho việc xác định các vùng biển và thềm lục địa của chúng.  

Có thể thấy rằng những lập luận của Tòa đã khiến chúng ta phải soi lại mình để có những hiệu chỉnh cho phù hợp ngay từ trong nhận thức về những khái niệm cơ bản thế nào là đảo, quần đảo, quốc gia quần đảo, các thực thể địa lý (hay còn gọi là các cấu trúc địa lý) không được coi là đảo?

Chẳng hạn, “tổng thể quần đảo Trường Sa” đượcTòa kết luận đó là một “thực thể thống nhất” có quy chế pháp lý riêng, chứ không theo quy chế của “quốc gia quần đảo” quy định tại Điều 47, UNCLOS 1982.

Đây là nội dung rất chính xác, đánh giá một cách tinh tế, rất có giá trị, bởi Trung Quốc từng giải thích và áp dụng Điều 47, UNCLOS 1982 để công bố hệ thống đường cơ sở thẳng để tính chiều rộng lãnh hải của cả quần đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng, Việt Nam) năm 1996.

Đây chính là ví dụ điển hình cho việc giải thích và áp dụng sai UNCLOS 1982 của Trung Quốc. Họ cũng đang có phương án lặp lại điều tương tự ở Trường Sa. Tuy nhiên, với phán quyết này, Tòa đã cảnh báo và ngăn chặn tính toán này của Trung Quốc.

Còn Việt Nam chúng ta cũng như một số bên liên quan cho đến nay mới chỉ đưa ra những quy định mang tính nguyên tắc về các vùng biển tạo ra bởi các thực thể ở Trường Sa, Hoàng Sa theo UNCLOS 1982 chứ chưa công bố phạm vi cụ thể của các vùng biển này theo UNCLOS 1982.

Trở ngại nằm trong chính trong nhận thức của chúng ta. Bởi vì, có không ít người cho rằng Việt Nam cũng nên xác lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho một số thực thể ở Trường Sa với hy vọng sẽ “dễ quản lý”.

Những quan điểm này không muốn để Trung Quốc và các thế lực khác dễ dàng qua lai tự do trong vùng nước nằm ở khoảng giữa các thực thể này vì cho rằng điều đó gây bấy lợi cho việc phòng thủ, bảo về đảo.

Tuy nhiên, điều đó có thể gây nên hiệu ứng “lợi bất cập hại”, vô tình “vẽ đường cho hươu chạy”. Chính phán quyết mới nhất của Tòa cho thấy chúng ta không thể áp dụng và giải thích UNCLOS 1982 một cách tùy tiện để phục vụ những mục đích ngắn hạn, nhất thời.

Mặt khác, chúng ta càng làm rõ yêu sách các vùng biển tạo ra bởi các thực thể nằm trong quần đảo Trường Sa mà chúng ta có chủ quyền, cũng như những thực thể chúng ta đang quản lý thực thi chủ quyền trong thực tế, sẽ càng góp phần vào việc thượng tôn pháp luật, bảo vệ UNCLOS 1982 và hạn chế bớt những mâu thuẫn, tranh chấp có thể nảy sinh do tình trạng nhập nhằng ngoài thực địa.

Để làm được điều này, một lần nữa chúng ta cần nghiên cứu kỹ UNCLOS 1982 và phán quyết của Tòa để hiểu cặn kẽ, từ những khái niệm hết sức cơ bản, bởi hiện nay vẫn còn nhiều nhận thức hết sức mơ hồ.

Những nhận thức này cũng có lúc đã tác động đến chủ trương, phương án xử lý trên thực tế một số tình huống xảy ra như: Xác nhận phạm vi đâu là nội thủy, đâu là lãnh hải, đâu là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, đâu là vùng chồng lấn, vùng nhạy cảm…

Bởi quy chế và phương thức đấu tranh, ứng xử trong từng tình huống ở mỗi vùng biển khác nhau là hoàn toàn khác nhau. 

Điều này có ảnh hưởng đến hiệu quả của những phương án đấu tranh về pháp lý, an ninh, quốc phòng; có tác động tích cực hoặc tiêu cực về mặt đối nội, đối ngoại, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, trên mặt trận đấu tranh dư luận.

Chẳng hạn, những thông tin sai trái do nhận thức mơ hồ này có lúc lại được phổ biến công khai trên phương tiện thông tin chính thức của Nhà nước Việt Nam khiến dư luận bất bình. 

Điều đáng nói nữa, nhận thức “mơ hồ” này đã trở thành căn cứ “thuyết phục” để cho ra đời các dự án tiêu tốn nhiều tỷ đồng của ngân sách nhà nước, như dự án xây dựng cột mốc đánh dấu vị trí các điểm cơ sở của hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.

Đó là một việc làm “vô tiền khoáng hậu”, nếu không muốn nói là vô bổ, không hề có quy định nào của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 đề cập đến.

UNCLOS 1982 đã quy định rất rõ ràng rằng, sau khi công bố các điểm cơ sở, quốc gia ven biển chỉ cần thể hiện hệ tọa độ địa lý các điểm đó lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp và lưu chiểu tại các tổ chức quốc tế của Liên Hợp Quốc:

Điều 16: Hải đồ và bản kê các tọa độ địa lý

“Các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải được vạch ra theo đúng các Điều 7, 9 và 10 hoặc các ranh giới hình thành từ các điều đó và các đường hoạch định ranh giới được vạch ra đúng theo các Điều 12 và 15, được thể hiện trên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí của nó. 

Nếu không, thì có thể thay thế bằng một bản kê các tọa độ địa lý các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa đã được sử dụng.

Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các hải đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên Hợp Quốc một bản để lưu chiếu.”
 
Chẳng những vậy, không một quốc gia nào đi cắm mốc các điểm cơ sở để đánh dấu đường cơ sở tính chiều rộng lãnh hải, đặc biệt là trong bối cảnh công nghệ định vị phát triển như hiện nay.

Trong khi vị trí cắm mốc đánh dấu đường cơ sở tính chiều rộng lãnh hải lại thường xuyên chịu tác động dịch chuyển của tự nhiên như thời tiết, khí hậu, thủy triều, hải lưu…nên không ai đi làm những việc tốn tiền và vô bổ như vậy.

Qua những nguồn thông tin khác nhau, tôi được biết có cả những đề xuất xây dựng các cột mốc chủ quyền ở trên tất cả các hải đảo của Việt Nam cho nó hoành tráng và thống nhất, thay cho các cột mốc chủ quyền cũ không đẹp và thông nhất về kích cỡ, hình thức.

Đề xuất, ý tưởng này là điều không thể chấp nhận được. Bởi lẽ các cột mốc chủ quyền cũ nhưng có giá trị pháp lý và lịch sử khẳng định việc xác lập, thực thi chủ quyền một cách hòa bình, hợp pháp của Nhà nước ta với các hải đảo ấy. 

Bất cứ cột mốc nào mới dù có đúc bằng vàng cũng không có giá trị pháp lý, nên những ý tưởng, đề xuất như thế này cần được nghiên cứu thấu đáo, kẻo lại tiền mất tật mang.

Chúng ta đã mất không ít di tích lịch sử văn hóa chỉ bởi tư duy “đập đi xây mới cho hoành tráng”. Nhưng với những bằng chứng về chủ quyền lãnh thổ mà đập đi xây mới, không chỉ tiền mất tật mang, mà làm như vậy sẽ là tự hủy bỏ các bằng chứng pháp lý – lịch sử vô cùng giá trị của chủ quyền lãnh thổ, cương vực quốc gia.

Như vậy, nội dung phán quyết của Hội đồng Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982 tuyên về hiệu lực của các thực thể địa lý ở quần đảo Trường Sa như phân tích ở trên, rõ ràng đã cung cấp cho chúng ta những kiến thức pháp lý hết sức có giá trị để vận dụng trong thực tế có hiệu quả nhất. 

Thiết thực nhất là phán quyết sẽ có tác động tích cực để gỡ được nút thắt của tiến trình ASEAN và Trung Quốc gặp phải trong quá trình  tiến hành tham vấn, đàm phán để ký được một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) mà ai ai cũng đang kỳ vọng.  

Sở dĩ trước đây COC không đi đến đâu vì tranh cãi chủ yếu xung quanh phạm vi áp dụng nó. Vì muốn hợp thức hóa yêu sách “đường lưỡi bò”, Trung Quốc đòi hỏi phạm vi điều chỉnh của COC phải nằm trong toàn bộ phạm vi đường 9 đoạn. 

Và tất nhiên không một quốc gia nào ven Biển Đông chấp nhận điều phi lý này. COC không thể ký kết được chính là do cái nút thắt này. Hy vọng phán quyết sẽ giúp cho các bên có được công cụ và phương pháp để tháo gỡ nó nhằm nhanh chóng ký kết được COC. 

Một lần nữa tôi xin được chia sẻ, chúng ta hoan nghênh và đánh giá cao Phán quyết của Tòa Trọng tài không phải vì Phán quyết này có lợi cho riêng một quốc gia nào.

Cũng không phải vì có thể lợi dụng nó phục vụ cho động cơ chính trị, nhằm thỏa mãn cảm xúc thắng thua, cắn xé lẫn nhau trong cuộc cạnh tranh quyền lực đang diễn ra khốc liệt trên phạm vi khu vực và thế giới.

Cái chính là chúng ta cần phải xem phán quyết này là thằng lợi chung của luật pháp, công lý và phải có trách nhiệm sử dụng nó như là một công cụ hữu ích để gìn giữ hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển vì sự sống còn của nhân loại!

RELATED ARTICLES

Tin mới