Việt Nam chỉ cần đủ các loại vũ khí trang bị để phòng thủ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo.
Tàu hải quân Việt Nam.
Ba mươi năm, kể từ năm 1988, với lịch sử, với chiều dài của quá trình giữ nước của người Việt Nam thì thời gian đó chỉ như cái “chớp mắt”. 30 năm, tuy dài so với một đời người nhưng cũng đủ để cho một thế hệ người Việt chứng kiến quá trình “Phủ Đổng vươn vai” nền quốc phòng Việt Nam.
Việt Nam đủ khả năng cần thiết để bảo vệ vững chắc lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, hải đảo, thiêng liêng của Việt Nam. Người Việt Nam đủ sức để buộc kẻ thù phải trả giá đắt nếu lĩnh xâm phạm bờ cõi, núi sông, biển đảo Việt Nam.
QĐ Trường Sa, pháo đài tiền tiêu của Việt Nam
Những người lính hải quân Việt Nam tham gia giải phóng quần đảo Trường Sa và hoạt động ở Trường Sa từ năm 1988 trở về trước, giờ đây chắc không khỏi ngạc nhiên vui mừng khi chứng kiến quần đảo Trường Sa hiện tại.
Thay đổi theo thời gian là đương nhiên thôi, nhưng sự thay đổi ở QĐ Trường Sa là sự thay đổi rất lớn về thế, lực, mang tầm chiến lược, khiến cho những cựu chiến binh dày dạn chiến trận năm xưa cũng phải phấn khích, thở phào nhẹ nhõm.
Dù Việt Nam chưa phải là nước giầu có, nhưng bù lại chúng ta có vị thế địa quân sự lợi hại, cho nên chỉ một thay đổi nhỏ về lực là có thể tăng sức mạnh lên nhiều lần.
Đầu tiên phải khẳng định QĐ Trường Sa là của Việt Nam và do đó, Việt Nam muốn triển khai phòng thủ hiện đại là quyền của Việt Nam mà không ai có quyền can thiệp.
Thứ hai là Việt Nam đã, đang và sẽ chuẩn bị đủ cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật trên đảo, sẵn sàng triển khai các trang thiết bị cần thiết bất cứ lúc nào, bất cứ đảo nào, để bảo vệ chủ quyền.
Có thể nói, QĐ Trường Sa của Việt Nam đã trở thành pháo đài giữa Biển Đông, nơi có nhiều tranh chấp trong khu vực. Một pháo đài giữa Biển Đông nhưng không cô lập, bởi đất liền không chỉ hướng tới với tất cả con tim mà còn bằng sức mạnh có thể để bảo vệ.
Trong bài viết này chúng ta chỉ quan tâm đến những dấu ấn đặc biệt “những ước mơ đã thành hiện thực” trong những ngày tháng cuối năm 2016 và đầu năm mới 2017.
Những “sát thủ” có tiếng trên Biển Đông.
Chiếc tàu ngầm KILO thứ 6 đã chính thức sắp cập cảng Cam Ranh. Vậy là “Hạm đội tàu ngầm Biển Đông” của Việt Nam sau một thời gian xây dựng, huấn luyện đến nay đã chính thức tham gia vào “cuộc chơi”.
Kể từ khi Việt Nam có chiếc KILO đầu tiên đến giờ, giới quân sự tây, ta đã phân tích, mổ xẻ đủ hết cả rồi, nhưng có điều thú vị, quan trọng nhất của vấn đề là KILO Việt Nam làm nhiệm vụ gì, mục tiêu tác chiến ra sao…thì ngay cả cơ quan tham mưu, tình báo đối phương cũng không thể hiểu.
Chính xác thì vũ khí trang bị trên 6 tàu ngầm Việt Nam là loại tên lửa gì, thủy lôi gì, loại nào là chủ trong các tàu ngầm…biết được rõ điều này có nghĩa là phần nào biết được nhiệm vụ, mục tiêu tác chiến của KILO Việt Nam trên Biển Đông.
Bí mật về chiến thuật, bí mật về công nghệ (vũ khí trang bị…) chính là sự khác biệt của KILO Nga, KILO Việt Nam, KILO Trung Quốc và KILO Ấn Độ với nhau trong tác chiến. Vì thế, tàu ngầm KILO trên Biển Đông luôn là bí ẩn và khi nó trong tay Việt Nam thì sức răn đe không phải là nhỏ.
Tên lửa diệt hạm
Chúng ta không đề cập đến hệ thống Bastion-P của Việt Nam mà chỉ cần một loạt phóng trúng đích là các tên lửa Yakhon có thể buộc đối phương ngừng cả một chiến dịch.
Ở đây chúng ta chỉ quan tâm đến loại tên lửa diệt hạm Kh-35 không kém gì “Harpoon” và “Exocet” bởi 2 lý do cực kỳ quan trọng:
Một là, Kh-35 được trang bị trên tất cả các loại tàu tên lửa của Việt Nam là loại tên lửa diệt hạm chủ yếu, chủ lực của Hải quân Việt Nam. Kh-35 có tầm bắn lý thuyết là 260km.
Hai là, Việt Nam được chuyển giao công nghệ và đã chế tạo thành công Kh-35E. Như vậy Việt Nam hoàn toàn tự chủ được số lượng tên lửa theo yêu cầu chiến lược. Điều này tối quan trọng.
Điều đáng nói ở đây là loại tên lửa này cho phép cải tiến nâng cấp tăng tầm bắn không giới hạn, ví dụ có thể sử dụng nhiên liệu có hiệu năng cháy tốt hơn sẽ làm tăng tầm bắn của tên lửa…
Mới đây, Trong chuyến thăm Ấn Độ của Bộ trưởng QP Việt Nam, về vấn đề chuyển giao công nghệ tên lửa, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ nêu rõ là “sẽ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ tên lửa. Việc chuyển giao công nghệ sẽ được tiến hành theo các giai đoạn, đảm bảo cho tới lúc Việt Nam có thể tự sản xuất được tên lửa trong nước”.
Vậy, “dây chuyền công nghệ chế tạo tên lửa cho Việt Nam” sản xuất ra loại tên lửa nào thì chưa biết, nhưng chắc chắn không phải là BrahMos, không phải là Kh-35 mà sẽ là loại tên lửa chiến lược?
“Tia chớp” Molnya
Đây là tàu tên lửa hiện đại đứng thứ hai sau “báo đen” Gepard 3.9 của Hải quân Việt Nam. Chúng ta không nêu Gepard 3.9 vì nó không có điều “đặc biệt” như Molnya.
“Tia chớp” hay “ong độc” Molnya là tàu tên lửa có tính độc đáo và cực kỳ lợi hại.
– Molnya nhỏ, nhanh, nhưng hỏa lực mạnh, chỉ cần một loạt phóng trúng mục tiêu thì sẽ đánh chìm cả tàu sân bay.
– Molnya là vũ khí chiến thuật nhưng có thể trở thành vũ khí chiến lược tùy theo tính năng kỹ chiến thuật của tên lửa được trang bị trên tàu.
– Molnya có khả năng sống sót cao vì cơ động nhanh.
– Molnya phù hợp với lối đánh sở trường của Hải quân Việt Nam.
Vậy, điều đặc biệt quan trọng ở đây là Việt Nam đã tự đóng được loại tàu chiến này (đã đóng được 6 chiếc) và như trên đã nói, Việt Nam đã sản xuất được tên lửa Kh-35…thì đối phương sẽ vô cùng cảnh giác với loại tàu tên lửa này của Việt Nam hơn Gepard 3.9.
Người Trung Quốc đã đánh giá không sai khi coi Molnya là một “bầy ong độc” trên Biển Đông.
Nói chung, chuẩn bị sẵn sàng chống xâm lược bảo vệ đất nước thì bao nhiêu cũng không đủ. Sức răn đe kẻ thù lớn bao nhiêu thì nền hòa bình được giữ vững bấy nhiêu.
Các “đồ chơi” của Việt Nam trên Biển Đông đã gửi đi một thông điệp cứng rắn rằng, nên giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, hy vọng dùng sức mạnh quân sự để chiếm đoạt là không khả thi, giá sẽ trả vô cùng đắt cho bất cứ ai liều lĩnh.