Câu hỏi Trung Quốc thực sự muốn gì ở biển Đông? Có nhiều nhà phân tích quốc tế dường như bằng lòng khi đưa ra các giả định về động cơ chiến lược và chiến thuật của Trung Quốc mà không đối chiếu các tuyên bố hay tài liệu của Trung Quốc.
Một số tài liệu chính thức của Trung Quốc có thể đọc được, vẽ ra một hình ảnh khác biệt. Sách trắng của Trung Quốc về chiến lược quân sự công bố tháng 5 năm 2015 xác định các mối đe dọa lớn nhất đối với Trung Quốc là “chủ nghĩa bá quyền, chính trị quyền lực và chủ nghĩa can thiệp mới”, và nêu rằng, ưu tiên hàng đầu của quân đội là “bảo vệ sự thống nhất quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của sự phát triển.”
Các nhà phân tích Mỹ thường tập trung vào quyền đi lại trên biển Đông như là một phần của “khu vực dùng chung của toàn cầu”. Còn Trung Quốc tập trung vào việc bảo vệ biển Đông như là một phần của lãnh thổ vốn có của họ.
Mặc dù tiến trình chính trị mờ đục của Trung Quốc gây khó khăn cho việc đánh giá cách lãnh đạo của quốc gia “thật sự” coi biển Đông như thế nào, các văn bản và các tuyên bố chính thức chắc chắn cung cấp một số hiểu biết sâu sắc. Như Ryan Martinson của trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ nhận xét, hồi tháng 6-2014, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định rằng, Trung Quốc phải đặt ưu tiên cao nhất vào việc xây dựng “một bức tường bất khả xâm phạm đối với việc bảo vệ biên giới và đại dương.”
Michael Swaine, thuộc Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, đã lưu ý rằng, Tập Cận Bình đã nhiều lần tập trung vào “sự cần thiết phải duy trì vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, các quyền và lợi ích trên biển và đoàn kết dân tộc, và xử lý đúng đắn các tranh chấp lãnh thổ và hải đảo”.
Trong hồi ký năm 2004 của mình, Đô đốc Lưu Hoa Thanh (Liu Huaqing), được xem như là cha đẻ của hải quân Trung Quốc hiện đại, đã liệt kê 6 mục tiêu về biển trong chiến lược của ông về “phòng thủ tích cực vùng biển gần”. Chiến lược này bao gồm việc tái thống nhất Đài Loan với đại lục; lấy lại lãnh thổ biển bị mất và có tranh chấp; bảo vệ tài nguyên biển quốc gia; bảo đảm các tuyến đường liên lạc chiến lược của Trung Quốc; ngăn cản hoặc đánh bại bất kỳ cuộc tấn công bằng đường biển nào của nước ngoài; và xây dựng rào cản hạt nhân chiến lược đủ tầm.
Điều có vẻ có ý nghĩa nhất là ba mục tiêu đầu liên quan đến việc “lấy lại” lãnh thổ và kiểm soát tài nguyên biển quốc gia. Đây là bằng chứng cho sự ám ảnh lâu dài của lãnh đạo Trung Quốc với việc làm chấm dứt mối “quốc sỉ” của đất nước.
Mặc dù vậy, phân tích quốc tế về các hành động của Trung Quốc tại biển Đông đã chú trọng quá nhiều vào ba mục tiêu sau – các chủ đề cổ điển của các nghiên cứu hải quân truyền thống và quan hệ quốc tế – nhưng không đúng mức cho ba mục tiêu đầu. Những phân tích như vậy đã không hiểu được những động cơ chính thúc đẩy chính sách của Trung Quốc.
Hành động của Trung Quốc được dựa vào cảm nhận về quyền nước này được làm chủ đối với các đảo, các rạn san hô và vùng biển của biển Đông, dựa trên các tài liệu lịch sử khu vực theo chủ nghĩa dân tộc. Cảm nhận về quyền được làm chủ này có thể dẫn Trung Quốc tới việc thực hiện các động thái quyết đoán hơn trong khu vực trong những năm tới – việc sáp nhập mỗi lần một ít các khu vực chiến lược và có nhiều tài nguyên – sẽ dẫn tới đối đầu nhiều nữa.
Những cân nhắc chiến lược rõ ràng là rất quan trọng đối với Trung Quốc. Đối với một nước phụ thuộc vào thương mại, việc tiếp cận đại dương mở thông qua biển Đông là vấn đề có tính sống còn của quốc gia. Nhìn qua ống kính này, có thể dễ dàng lập luận rằng, việc xây dựng đảo của Trung Quốc là một phản ứng phòng thủ trước một chiến lược chiến tranh có thể có trong tương lai của quân đội Mỹ ngăn chận con đường thương mại trên biển.
Trung Quốc đã là nước chuyên nhập khẩu lương thực thực phẩm từ năm 2007. Đến năm 2013 Trung Quốc đã vượt Mỹ để trở thành nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới. Ngoại thương chiếm khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc, tuy nhiên nước này không có đường ra biển mà không bị cản trở.
Một yếu tố thứ hai cho chương trình “phòng vệ” này là tăng cường chiến lược “chống truy cập, từ chối khu vực” đối với các nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc hậu thuẫn Đài Loan trong trường hợp có xung đột. Các căn cứ trên đảo mới của Trung Quốc gia tăng lớn việc giám sát qua các hệ thống cảnh báo sớm của nước này, tạo điều kiện dễ dàng theo dõi các mục tiêu tiềm năng hơn và cung cấp những khu trú ẩn phân tán cho tàu chiến và máy bay.
Yếu tố thứ ba là Trung Quốc dự kiến sẽ sử dụng các vùng nước sâu của biển Đông làm căn cứ cho tàu ngầm tên lửa đạn đạo mới, lớp Jin [Tấn]. Sẽ rất dễ dàng để Trung Quốc xây dựng “pháo đài” cho những tàu ngầm này nếu họ có thể kiểm soát bãi cạn Scarborough.
Việc lắp đặt “các trại trên không” lớn và tháp radar trên các đảo nhân tạo mới mà Trung Quốc đang xây dựng, cho thấy chúng sẽ được sử dụng làm cơ sở cho các hoạt động giám sát trên không, trên biển và dưới mặt biển, nhằm tăng cường khả năng bảo vệ tích hợp cho tàu ngầm bên trong pháo đài. Việc xây dựng đảo của Trung Quốc cũng phản ánh mục tiêu ngăn chặn không cho các bên yêu sách Đông Nam Á thực hiện bất kỳ hành động nào có thể ngăn chặn họ khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đó.
Phía sau các động cơ “phòng thủ” và quan liêu là một phiên bản lịch sử đặc biệt, sô vanh nước lớn. Mặc dù có nhiều bằng chứng cho thấy ngược lại, quan điểm chính thức của Trung Quốc là chỉ có các tàu thuyền Trung Quốc từng sử dụng biển Đông xưa nay và do đó Trung Quốc có “quyền lịch sử” đối với các vùng biển bên trong đường chữ U. Hồi tháng 7-2016, Tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague kết luận rằng, không có cơ sở chính đáng để Trung Quốc khẳng định “quyền lịch sử”, tuy nhiên, lập luận này tiếp tục là nền tảng cho cuộc xung đột đang diễn ra giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á láng giềng.
Chính sách của Trung Quốc đối với biển Đông phản ánh một cảm xúc bất bình mà những đấu thủ khác trong các tranh chấp thường không đánh giá cao. Trung Quốc tin rằng họ đang chỉnh lại cho đúng những sai trái gây ra cho họ trong những thập niên trước. Theo quan điểm của Bắc Kinh, những bước lấn tới của họ ở biển Đông là biện minh được bởi vì họ đang đòi lại lãnh thổ “bị mất” (!).
Bắc Kinh tin rằng bất kỳ hành động của một cường quốc nước ngoài cố cản trở việc thống nhất lãnh thổ quốc gia – dù đó là một cuộc tuần tra hải quân hay một toà trọng tài quốc tế, phải bị chống lại, bởi vì đó chỉ đơn giản là một màn diễn khác trong một lịch sử lâu dài về mưu toan của nước ngoài chia cắt Trung Quốc.
Tất cả các nỗ lực cả về ngoại giao lẫn đối đầu đều sẽ không làm giảm động lực thúc đẩy phía sau các hành động của Trung Quốc ở biển Đông. Mặc dù việc sử dụng vũ lực có thể cản trở những bước lấn tới của Trung Quốc. Nó cũng sẽ làm tăng cảm giác thất vọng và kích động những đòi hỏi bên trong Trung Quốc về một phản ứng quyết đoán hơn. Các tranh chấp chỉ có thể được giải quyết thật sự qua việc làm suy yếu ý thức chính đáng của Trung Quốc và điều đó đòi hỏi phải vạch trần việc sử dụng gian lận các bằng chứng lịch sử và thách thức phiên bản lịch sử sai lệch của họ.
Lý do chiến lược của việc Trung Quốc duy trì một sự hiện diện mạnh mẽ ở biển Đông – bảo vệ bờ biển, các tuyến đường biển và ngăn chặn hạt nhân – sẽ còn bền vững. Nhưng các lập luận của họ cho việc kiểm soát độc quyền các nguồn tài nguyên biển và quyền điều chỉnh giao thông thì lại dựa trên các kể lể lịch sử lệch lạc và có thể bị thách thức.
Vì đây là hai vấn đề có nhiều khả năng gây xung đột, thách thức chúng, hơn là đáng để cân nhắc. Hoàn toàn có thể giữ trung lập về mặt chính trị đối với vấn đề lãnh thổ, trong khi vẫn khẳng định rằng, các yêu sách của Trung Quốc thiếu những bằng chứng có thể kiểm chứng được. Tất cả các nước có lợi ích trong việc giải quyết hòa bình, các tranh chấp biển Đông cần phải xem xét một cách nghiêm túc hơn về mặt lịch sử và khẳng định rằng những yêu sách thiếu hậu thuẫn không phải là cơ sở để đối thoại và giải quyết xung đột.
Đối với khu vực châu Á và trên thế giới, sự tham gia không thể thiếu của các chuyên gia về Trung Quốc và các nhà hoạch định chính sách về cơ sở của các kể lể của họ về biển Đông là bước thiết yếu đầu tiên. Các nhà đối thoại với các quan chức Trung Quốc phải tự vũ trang mình các bằng chứng đó, để thách thức các kể lể lịch sử không có thật và sẵn sàng sử dụng chúng trong các cuộc thảo luận. Trong 20 năm qua, tất cả các bằng chứng này ngày càng dễ dàng tìm thấy. Đã đến lúc sử dụng chúng.