Việt Nam đã rất thận trọng khi thỏa thuận áp dụng giải pháp “cùng phát triển” cho 2 khu vực biển khác nhau.
Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte tại Diễn đàn quốc tế Một vành đai, một con đường ở Bắc Kinh, ảnh: Rappler.
Tiếp theo bài trước: “Gác tranh chấp, cùng khai thác” trên Biển Đông đang trở thành hiện thực?
3. Philippine đã “ dính bẫy” chưa?
Nhiều người bức xúc cho rằng nội dung mà các lãnh đạo tuyên bố trong quan hệ với Trung Quốc liên quan đến Biển Đông trong thời gian qua là đã “dính bẫy” do Trung Quốc giăng ra; thậm chí là đã quy phục, đầu hàng Trung Quốc.
Tuy nhiên, dựa trên những nội dung pháp lý đã nêu ở phần 1 và với một tinh thần cầu thị, khách quan khi nhận xét đánh giá nội dung và hình thức của các tuyên bố đặt trong bố cảnh hiện nay, chúng ta hãy cùng nhau phân tích về bản chất, ý nghĩa và giá trị của các tuyên bố quan trọng đó.
Theo nguồn tin của các hãng thông tấn khu vực và quốc tế, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte, hôm thứ Ba tuần trước 16/5 tuyên bố ông sẵn sàng cùng Trung Quốc và Việt Nam, hai đối thủ chính trong tranh chấp Biển Đông, thăm dò tài nguyên ở Biển Đông.
Tổng thống Philippines nói ông có thể hợp tác với các nước láng giềng khi trở về nước từ Bắc Kinh, sau cuộc gặp với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường:
“Nếu có thể có được cái gì đó mà không gặp phiền hà, thì tại sao không chứ?”, ông Duterte nói với các nhà báo. Ông nói thêm rằng với điều kiện là mọi sự phải “công bằng và cân xứng”.
Căn cứ vào lời lẽ nói trên, chúng tôi không nghĩ rằng Nhà nước Philippines đã chính thức từ bỏ yêu sách của mình trên Biển Đông. Vì sao?
Thứ nhất, ông Duterte chỉ tuyên bố về nguyên tắc là “sẵn sàng” hợp tác với Trung Quốc và Việt Nam với điều kiện không gặp “phiền hà” và mọi sự phải “công bằng và cân xứng”.
Suy ra rằng bất cứ một thỏa thuận nào có liên quan đến lãnh thổ, chủ quyền quốc gia là phải tuân thủ đúng thủ tục pháp lý và đảm bảo sự bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Nếu không thì sẽ phải “gặp phiền hà” bởi sự phủ quyết của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và bởi sự phản kháng của người dân nước họ.
Chính vì vậy, bên cạnh những tuyên bố của Tổng thống Duterte trong thời gian tham dự Diễn đàn cấp cao: “Vành đai và Con đường” tại Bắc Kinh, ông Santa Romana, một quan chức ngoại giao Philippines lại tuyên bố rằng:
Sự tham dự của ông Duterte tại hội nghị thượng đỉnh về Con đường Tơ lụa lần này không thể được coi là Philippines đã “từ bỏ” tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Phải chăng đó là chìa khóa an toàn về mặt pháp lý nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Philippines trong Biển Đông?
Thứ hai, đi sâu hơn về ý tứ của tuyên bố đó, thiết nghĩ đây cũng là một sách lược khôn ngoan của phía Philippines trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền của các bên liên quan đối với quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Lịch sử của quá trình Philppines tranh chấp chủ quyền ở đây đã chứng minh và ngay cả phía Philippines cũng đã thừa nhận:
Họ đã nhảy vào tranh chấp chủ quyền chỉ từ những năm 50 và đã chiếm đóng trên thực tế một số thực thể thuộc quần đảo Trường Sa vào những năm 70 của thế kỷ trước.
Trên danh nghĩa pháp lý, họ cũng chỉ đòi hỏi chủ quyền đối với các thực thể nằm trong phạm vi hình lục giác bao lấy một phần quần đảo Trường Sa (trừ nhóm đảo Trường Sa lớn), mà họ gọi là “Kalayaan”.
Họ lập luận rằng nhóm đảo này, mặc dù không phải là một bộ phận cấu thành quốc gia quần đảo, vẫn thuộc chủ quyền của Philippines, vì chúng ở gần Philippines về mặt khoảng cách địa lý.
Nguyên tắc “khoảng cách địa lý” không có giá trị để bảo vệ cho việc chiếm đóng của họ dưới ánh sáng của luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Vì vậy, phải chăng tuyên bố này cũng là một biện pháp pháp lý nhằm giành lấy sự công nhận trên thực tế việc chiếm đóng phi pháp của họ, nếu các bên liên quan chấp nhận “đề xuất” này?
Thứ ba, Philippines thừa biết rằng đây không phải là lần đầu tiên Philippines tìm cách hợp tác với Trung Quốc và Việt Nam ở Biển Đông.
Năm 2005, Tổng thống Philippines Gloria Arroyo đã ký một thỏa thuận thăm dò dầu khí với Trung Quốc và Việt Nam trên khắp khu vực.
Nhưng thỏa thuận này sau đó sụp đổ, khiến bà Arroyo sau đó tuyên bố “không thể tin vào người Trung Quốc”.
Mặc dù như vậy, Philippines vẫn tiếp tục đề xuất chủ trương này cũng chỉ vì mục đích tìm kiếm lợi ích kinh tế trong quan hệ với Trung Quốc mà thôi.
Bởi thế, Tổng thống Philippines nói chuyến đi của ông tới thăm Bắc Kinh là “cơ may” cho Philippines, ông tiết lộ rằng sẽ có thêm nhiều khoản đầu tư từ Trung Quốc, nhưng ông không cho biết thêm chi tiết…
4. Việt Nam chưa “dính bẫy”?
Trước hết chúng tôi xin được trích nguyên văn nội dung được nêu tại Điểm 6, Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc nhân kết thúc chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Trần Đại Quang vừa diễn ra:
“Hai bên đã trao đổi thẳng thắn, chân thành về vấn đề trên biển; nhấn mạnh cần tuân thủ nhận thức chung quan trọng mà lãnh đạo hai Đảng, hai nước đã đạt được và “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc”;
Sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt – Trung; kiên trì thông qua đàm phán, hiệp thương hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được;
Tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển.
Hai bên nhất trí làm tốt các công việc tiếp theo sau khi hoàn thành khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy vững chắc đàm phán phân định khu vực vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này;
Tiếp tục thúc đẩy công việc của Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển; triển khai hiệu quả các dự án hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm đã thoả thuận.
Hai bên nhất trí tiếp tục thực hiện toàn diện và hiệu quả “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), trên cơ sở hiệp thương thống nhất, sớm xây dựng “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông” (COC);
Kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông”.
Trong nội dung này, chúng tôi xin lưu ý thỏa thuận “hợp tác cùng phát triển” là giải pháp tạm thời áp dụng cho hai khu vực khác nhau:
Một là ở khu vực cửa vịnh Bắc Bộ: “…Hai bên nhất trí làm tốt các công việc tiếp theo sau khi hoàn thành khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy vững chắc đàm phán phân định khu vực vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này…”.
Hai là: “trên biển”: “…tiếp tục thúc đẩy công việc của Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển; triển khai hiệu quả các dự án hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm đã thoả thuận.”.
Từ nội dung nói trên, chúng tôi cho rằng Việt Nam đã rất thận trọng khi thỏa thuận áp dụng giải pháp “cùng phát triển” cho 2 khu vực biển khác nhau:
Một là khu vực cửa vịnh Bắc Bộ mà 2 bên đang tiến hành đàm phán phân định ranh giới vùng chồng lấn.
Trong khi hai bên đang đàm phán để thống nhất một đường phân định cuối cùng thì có thể thỏa thuận áp dụng giải pháp tạm thời “cùng phát triển”cho vùng chồng lấn ở đây.
Đây là một thỏa thuận hoàn toàn phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
Hai là: nhóm công tác cần tiếp tục “…bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển…” Cụm từ “trên biển” ở đây nên được hiểu như thế nào?
Phải chăng cụm từ này đã phản ánh sự dung hòa quan điểm của 2 bên về phạm vi áp dụng giải pháp “cùng phát triển”?
Theo lập trường của Việt Nam, phạm vi này chỉ có thể phải là các vùng chồng lấn được hình thành dựa trên cơ sở vận dụng các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 khi xác lập phạm vi vùng đặc quyền và thềm lục địa của mỗi quốc gia.
Còn Trung Quốc có thể cho rằng “trên biển” nói trong tuyên bố này bao gồm toàn bộ vùng biển nằm trong giới hạn đường “lưỡi bò”, trong đó có cả khu vực quần đảo Trường Sa mà họ gọi là “Nam Sa quần đảo”, nơi mà Trung Quốc, kể cả vùng lãnh thổ Đài Loan, cho đến nay đã cưỡng chiếm được 9 thực thể địa lý;
Nhưng lập trường của Trung Quốc về khái niệm “trên biển” lại không bao gồm khu vực quần đảo Hoàng Sa mà họ gọi là Tây Sa và đã chiếm đóng trái phép hoàn toàn từ năm 1974.
Đó là cách mà Trung Quốc vẫn thường xuyên sử dụng để áp đặt, mặc cả trong đàm phán ngoại giao.
Như vậy, có thể thấy lập trường của hai bên về phạm vi áp dung cho giải pháp “cùng khai thác trên biển” còn cần phải được cụ thể hóa bằng các cuộc đàm phán cấp chuyên viên.
Và chắc chắn điều này sẽ không dễ dàng thống nhất được một sớm một chiều, nếu Trung Quốc vẫn cố tình bám giữ yêu sách “lưỡi bò”.
Như vậy, không thể nói Việt Nam đã “dính bẫy” mà Trung Quốc đã giăng ra trong Biển Đông.
Tuy nhiên, như mọi người đều đã biết, Việt Nam luôn luôn chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; trong đó, đàm phán ngoại giao song phương hoặc đa phương là biện pháp ưu tiên hàng đầu.
Trong quá tình đàm phán hòa bình, Việt Nam cũng đã từng chủ động đề xuất áp dụng các giải pháp tạm thời có tính thực tiễn và hợp lý để tạo môi trường thuận lợi cho quá trình đàm phán, từng bước tìm được giải pháp cơ bản, lâu dài mà các bên có thể chấp nhận được.
Tất nhiên cũng phải tùy theo khu vực và tính chất tranh chấp để áp dụng các giải pháp tạm thời thích hợp nhất, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế, chẳng hạn:
Trong cuộc đàm phán từ ngày 3 đến 5/6/1992, Việt Nam và Malaysia đã ký văn bản thỏa thuận hợp tác khai thác chung khu vực biển chồng lấn rộng 2.800 km2 trong vịnh Thái Lan (gọi tắt là MOU).
Nội dung chủ yếu của MOU là, hai bên đã xác định chính thức tọa độ khu vực chồng lấn theo đường ranh giới thềm lục địa mà phía Việt Nam và phía Malaysia đưa ra, quy định hợp tác khai thác chung vùng chồng lấn này theo nguyên tắc chia sẻ đồng đều chi phí và phân chia đồng đều lãi suất.
Thỏa thuận cũng nêu rõ, nếu như có mỏ dầu khí nằm vắt ngang khu vực chồng lấn và một phần nằm trên thềm lục địa của Việt Nam hoặc Malaysia thì hai bên sẽ thỏa thuận cùng thăm dò khai thác.
Về quản lý nhà nước đối với các hoạt động tại khu vực chồng lấn, thì hai bên cũng có thỏa thuận về quản lý hải quan, thuế, biên phòng…
Với Indonesia, Việt Nam cũng đã ký thỏa thuận hoạch định ranh giới thềm lục địa và hiện hai nước đang tiến hành đàm phán về ranh giới vùng đặc quyền kinh tế.
Việt Nam cũng đã từng chủ động đề nghị áp dụng giải pháp hợp tác cùng khai thác trước khi nhất trí xác định được ranh giới cuối cùng của vùng đặc quyền kinh tế, tuy nhiên, hai bên vẫn chưa đạt được đồng thuận.
Trở lại vấn đề hợp tác cùng khai thác giữa Việt Nam và Trung Quốc:
Tại khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, Việt Nam và Trung Quốc có vùng chồng lấn được tạo ra bởi yêu sách của đôi bên trong hoạch định vùng biển theo đúng với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và hai bên đã đề cập sẽ có sự hợp tác khai thác chung ở khu vực chồng lấn này.
Trong đàm phán phân định vịnh Bắc Bộ, Việt Nam cũng đã từng thỏa thuận áp dụng giải pháp hợp tác trong vùng đánh cá chung chứ không phải bây giờ mới đề cập.
Mặc dù đã thống nhất được đường phân định, nhưng vì lý do chiếu cố đến lợi ích của ngư dân của đôi bên trong quá trình chuyển đổi nghề, nên hai bên đã đồng ý xác định một khu vực gọi là “khu vực đánh cá tạm thời, quá độ”.
Cũng trên tinh thần đó, ngành dầu khí hai nước cũng đã ký gia hạn thỏa thuận cùng nhau hợp tác thăm dò, khai thác mỏ dầu vắt ngang qua đường phân định biên giới tại vịnh Bắc Bộ.
Đối với tranh chấp Biển Đông, ngày 23/9/2013, tờ Inquirer của Philippines, đăng bài viết của John Nery, một trong 15 nhà báo ASEAN phỏng vấn Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long.
Trong đó ông Lý Hiển Long có đưa ra một số bình luận đáng chú ý khi cho rằng: tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông “chỉ có thể quản lý, không thể giải quyết”, đồng thời ông kêu gọi các bên tranh chấp cùng khai thác nguồn tài nguyên trên Biển Đông.
Xuất phát từ lợi ích khu vực trong tình hình hiện nay, tuyên bố này xét về phương diện chính trị, ngoại giao là hợp lý.
Nhưng đi sâu về mặt pháp lý, vấn đề đặt ra là hợp tác khai thác như thế nào, ở đâu, và áp dụng cho loại tranh chấp nào?
Bởi vì, theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, không có chuyện vùng đặc quyền kinh tế hay vùng thềm lục địa được xác lập hợp pháp, chính đáng, rõ ràng theo quy định của Công ước này, lại bị nước khác, do động cơ vụ lợi, nhảy vào, cố tình tạo ra tranh chấp, rồi bắt “cùng khai thác”, biến vùng không phải tranh chấp thành vùng tranh chấp, biến không thành có.
Chính vì thế, các Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quôc đề cập tới giải pháp “hợp tác cùng khai thác” áp dụng cho khu vực ở ngoài cửa vịnh Bắc Bộ là khả thi, vì đây là điều rất bình thường, giống như đã được áp dụng tại các vùng chồng lấn giữa Việt Nam và Malaysia; Việt Nam, Thái Lan và Malaysia trong vịnh Thái Lan…
Như vậy cho thấy rằng, Việt Nam sẵn sàng áp dụng giải pháp tạm thời “hợp tác cùng khai thác” đối với những vùng chồng lấn được hình thành bởi yêu sách dựa theo đúng quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 chứ không phải đồng ý giải pháp “gác tranh chấp, cùng khai thác” trên toàn bộ Biển Đông.
Liên quan đến giải pháp tạm thời theo nguyên tắc Status- quo, Việt Nam và Trung Quốc cũng đã vận dụng thành công giải pháp tạm thời này cho quá trình đàm phán giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh thổ giữa 2 nước:
Năm 1991, sau khi quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc được khôi phục, trước khi mở ra các vòng đàm phán về biên giới, lãnh thổ trên đất liền, hai bên đã ký “Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới” theo nguyên tắc quản lý biên giới theo tình hình thực tế, giữ nguyên mốc giới hiện có (nguyên tắc Status-quo).
Trong quá trình đàm phán về biên giới trên bộ, hai bên cũng đã vận dụng nguyên tắc này để xử lý thỏa đáng những khu vực biên giới trên bộ còn có nhận thức khác nhau, nhằm phục vụ cho nhu cầu hợp tác trên một số lĩnh vực kinh tế kỹ thuật.
Thỏa thuận khai thông đường sắt liên vận Đồng Đăng –Bằng Tường và Lào Cai- Sơn Yêu là một ví dụ điển hình, sinh động về cách thức áp dụng nguyên tác này với danh nghĩa là một giải pháp tạm thời:
Trước khi thống nhất được đường biên ở khu vực biên giới còn có nhận thức khác nhau này, Việt Nam và Trung Quốc cần giải quyết một nhu cầu rất thiết yếu về kinh tế, kỹ thuật.
Đó là làm sao khai thông tuyến đường sắt Đồng Đăng – Bằng Tường, nối Lạng Sơn của Việt Nam với khu vực tự trị Choang- Quảng Tây, Trung Quốc. Tuyến đường này đi qua Hữu Nghị Quan, thuộc khu vực 249C, là khu khu vực Việt Nam và Trung Quốc có nhận thức khác nhau về mặt pháp lý, từng xảy ra đụng độ đẫm máu.
Lịch sử bảo vệ, quản lý tại thực địa ở đây khiến việc đàm phán không dễ dàng giải quyết một sớm một chiều.
Trong khi đó, nhu cầu khai thông tuyến đường sắt liên vận sau khi hai nước khôi phục quan hệ là rất cần thiết, không chỉ đáp ứng nhu cầu hợp tác phát triển kinh tế, dân sinh của mỗi nước, mà còn có ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội trong quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia láng giềng vừa trải qua một cuộc chiến tranh biên giới khốc liệt.
Tuy vậy, câu hỏi đặt ra làm sao có thể khai thông được khi mà tuyến đường sắt liên vận này phải đi qua khu vực tranh chấp về biên giới, lãnh thổ chưa được giải quyết?
Trong khi Trung Quốc từ lâu tìm cách khẳng định đường biên giới đi qua “điểm nối ray”, còn Việt Nam cho rằng đường biên giới phải đi qua “nhà mái bằng”, ngôi nhà bảo vệ thiết bị thông tin kết nối đường sắt.
Hai điểm này cách nhau 300 mét.
Đại diện đàm phán hai nước, với tinh thần khách quan, cầu thị, đã thẳng thắn khẳng định đường biên giới chủ trương của cả Trung Quốc và Việt Nam thể hiện trong khu vực này là không hoàn toàn chuẩn xác, không thể đi qua vị trí mà Trung Quốc, Việt Nam đã lựa chọn.
Vì thế hai bên cần phải đàm phán để tìm ra một đường biên giới mới mà cả hai nước có thể chấp nhận. Trong khi đàm phán hoạch định biên giới theo thỏa thuận, hai bên nên thống nhất chọn một giải pháp tạm thời, mang tính kinh tế, kỹ thuật, để khai thông tuyến đường sắt liên vận.
Giải pháp tạm thời này không làm ảnh hưởng đến việc hoạch định hướng đi của đường biên giới mới tại khu vực tranh chấp.
Việt Nam và Trung Quốc chấp nhận “đóng băng” khu vực 300 mét này, tức là khi con tàu chạy từ phía Việt Nam đến “điểm nối ray” và từ phía Trung Quốc đến vị trí “nhà mái bằng” thì dừng lại, để các lực lượng quản lý nhà nước của hai bên rời khỏi tàu.
Trên tàu chỉ còn các chuyên gia kỹ thuật, lái tàu và nhân viên phục vụ hàng hóa ở lại làm nhiệm vụ chuyên môn, dịch vụ.
Vì vậy, hai nước ký biên bản khai thông đường sắt Đồng Đăng – Bằng Tường và Lào Cai – Sơn Yêu ngay trong dịp Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm hữu nghị Trung Quốc cuối năm 1995.
Thiết nghĩ, đó là một bài học để có thể nghiên cứu áp dụng cho những khu vực tranh chấp có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ trên biển.
Và, chính trong Tuyên bố về nguyên tắc ứng xử trên Biển Đông (DOC), các bên tham gia cũng đã thỏa thuận giữ nguyên hiện trạng, không mở rộng thêm sự chiếm đóng, không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình…cũng đã vận dụng tốt nguyên tắc Status-quo rồi.
Tất nhiên, điều tối quan trọng khi sử dụng những giải pháp tạm thời này là cần phải khẳng định rằng chúng không làm ảnh hưởng đến quá trình đàm phán và kết quả cuối cùng, trên tinh thần thượng tôn pháp luật, tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhau, vì hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển của khu vực và quốc tế.
Tuy vậy, các bên vẫn có quyền (và cần thiết) bảo lưu quan điểm về chủ quyền của mình đối với các thực thể địa lý mà mình đã tuyên bố có chủ quyền để phục vụ cho một kênh giải quyết tranh chấp quyền thụ đắc lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình đối với các thực thể địa lý này, khi các bên tranh chấp cùng thỏa thuận tổ chức thực hiện theo đúng các thủ tục pháp lý nhất định.