Thursday, November 28, 2024
Trang chủNhìn ra thế giớiChuyên gia quốc tế: "Mỹ cần phải cho Trung Quốc thấy rõ...

Chuyên gia quốc tế: “Mỹ cần phải cho Trung Quốc thấy rõ hậu quả thế nào nếu độc chiếm Biển Đông”

Các nhà hoạch định chính sách Mỹ nên thừa nhận rằng, hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông dựa vào nhận thức của họ về khả năng phản ứng của Hoa Kỳ.

Financial Times, Anh quốc ngày 18/6 đưa tin, Hải quân Mỹ sẽ tiếp cận Biển Đông “ít ồn ào” hơn trong thời gian tới. Các hoạt động của Mỹ trên Biển Đông sẽ vẫn tiếp tục, nhưng không công khai gióng trống mở cờ.

Mỹ tiếp tục “tuần tra thầm lặng” ở Biển Đông

Phát biểu trong chuyến thăm Trung Quốc, Đô đốc Scott Swift, chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương, Hoa Kỳ, khẳng định chính sách “ít nói” về những nỗ lực thách thức yêu sách hàng hải quá mức của Trung Quốc:

“Tôi nghĩ đó là một bước tiến tích cực trong chính sách hiện nay. Đó là chúng tôi sẽ không nói về hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông.”.

Mục tiêu cuối cùng trong chính sách của Mỹ ở Biển Đông là để chứng tỏ sức mạnh thông qua sự hiện diện. Tuy nhiên các hoạt động này không có khả năng ngăn cản Bắc Kinh trong tương lai gần.

“Tôi không nghĩ rằng ai cũng mong chờ một sự đảo ngược lớn. Điều này sẽ mất thời gian”, Đô đốc Scott Swift nói.

Ông thăm Trung Quốc cùng với chiến hạm USS Sterett, đây là chuyến thăm đầu tiên của tàu chiến Hoa Kỳ đến Trung Quốc kể từ tháng 8/2016, sau khi vừa kết thúc một cuộc tập trận trên Biển Đông cùng lực lượng phòng vệ Nhật Bản.

Đô đốc Scott Swift từ chối bình luận về hoạt động tuần tra tự do hàng hải của tàu khu trục USS Dewey ngày 24/5 bên trong 12 hải lý bãi Vành Khăn, Trường Sa (Khánh Hòa, Việt Nam, hiện cấu trúc này bị Trung Quốc chiếm đóng và quân sự hóa trái phép).

Tiến sĩ Bonnie Glaser, một chuyên gia về Trung Quốc từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quốc tế ở Washington cho biết:

Dưới thời Tổng thống Barack Obama, Mỹ đã bắt đầu công khai các hoạt động tuần tra tự do hàng hải, một phần là để trấn an các đồng minh trong khu vực.

Bà cho hay, sang thời Tổng thống Donald Trump, một quyết định đã được đưa ra là “không thảo luận công khai về các hoạt động tự do hàng hải trên Biển Đông”.

Tiến sĩ Bonnie Glaser nói:

“Tuần tra tự do hàng hải được tiến hành trên toàn cầu trong nhiều thập kỷ. Họ không có ý định công bố nó.”.

Kể từ năm 2013, Hoa Kỳ đã tiến hành trung bình 2 hoạt động tuần tra tự do hàng hải mỗi năm đối với các yêu sách của Trung Quốc.

Nhưng số ngày tàu Mỹ được sử dụng ở Biển Đông đã tăng lên 900 trong năm 2017, cao hơn mức trung bình từ 600 đến 700 ngày trong cả một thời kỳ dài.

Đô đốc Scott Swift cho rằng, chính sách tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông là “nhất quán giữa hai chính quyền”, Barack Obama và Donald Trump.

Bình luận về chính sách của Hoa Kỳ trên Biển Đông trên tạp chí Foreign Affairs ngày 13/6/2017, cựu Phó Cố vấn An ninh quốc gia dưới thời Phó Tổng thống Joe Biden, học giả Ely Ratner đã có bài phân tích đáng chú ý: “Làm thế nào để ngăn Trung Quốc bành trướng trên Biển Đông?”

Mỹ không chỉ rõ hậu quả của hoạt động bành trướng trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ được đằng chân lân đằng đầu

Học giả Ely Ratner nhận định:

“Thời gian đang bị lãng phí trong việc ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc.

Với chính sách hiện tại của Mỹ đang chao đảo, chính quyền của Tổng thống Donald Trump cần phải chắc chắn hơn.

Mỹ nên bổ sung cho các giải pháp ngoại giao bằng cách ngăn chặn, cảnh báo Trung Quốc rằng:

Nếu hoạt động bành trướng của họ còn tiếp diễn (trên Biển Đông), Hoa Kỳ sẽ từ bỏ lập trường trung lập trong vấn đề chủ quyền và trợ giúp các nước nhỏ bảo vệ mình.

Washington nên cho thấy rõ rằng, Mỹ có thể sống chung với bế tắc khó chịu ở châu Á, nhưng không phải với quyền bá chủ của Trung Quốc.

Trung Quốc tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi” với cả vùng biển rộng lớn bên trong đường 9 đoạn, choán hầu hết diện tích Biển Đông, dọc theo bờ biển các nước trong khu vực.

Mặc dù từ lâu Trung Quốc thiếu sức mạnh quân sự để thực hiện tuyên bố này, nhưng điều đó đang thay đổi nhanh chóng.

Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và các cơn bão kinh tế càn quét phương Tây đã thuyết phục Bắc Kinh rằng, thời cơ đã chín muồi để họ bành trướng sức mạnh.

Kể từ đó, Trung Quốc đã thực hiện một loạt hoạt động nhằm kiểm soát Biển Đông:

Năm 2009, họ quấy rối tàu tuần dương Impeccable của Hoa Kỳ khi nó đang hoạt động thường xuyên trong khu vực.

Năm 2011, tàu hải giám Trung Quốc đã (xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa hợp pháp của Việt Nam) cắt cáp một con tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam.

Năm 2012, hải quân và hải giám Trung Quốc đã chiếm quyền kiểm soát, phong tỏa bãi cạn Scarborough từ tay Philippines.

Năm 2013, Trung Quốc phái tàu tuần tra có vũ trang tiến vào vùng đặc quyền kinh tế Indonesia ở quần đảo Natuna để “cứu” ngư dân Trung Quốc bị lực lượng chức năng nước sở tại bắt do đánh cá trái phép.

Đầu năm 2014, Trung Quốc đã bắt đầu nước cờ táo bạo, nạo vét và bồi đắp đảo nhân tạo trên 7 cấu trúc họ chiếm đóng (bất hợp pháp) ở Trường Sa (Khánh Hòa, Việt Nam).

Chỉ trong 18 tháng, Trung Quốc đã bồi lấp được 3000 mẫu Anh.

Mặc dù tháng 9/2015, ông Tập Cận Bình công khai cam kết Trung Quốc sẽ không quân sự hóa Biển Đông, cuối cùng họ đã nhanh chóng biến 7 đảo nhân tạo thành các căn cứ quân sự hiện đại.

Chúng bao gồm 3 sân bay, cầu cảng và hệ thống vũ khí phòng không, vũ khí chống ngầm.

Trong tương lai gần, nếu Trung Quốc thành công trong các nỗ lực này, họ sẽ sẵn sàng thiết lập một vùng ảnh hưởng khổng lồ ở phía Nam.

Điều này sẽ khiến các nước khác trong khu vực không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải theo ý chí phương Bắc.

Việc này sẽ làm hỏng các liên minh và quan hệ đối tác của Hoa Kỳ, đe dọa khả năng tiếp cận thị trường và các nguồn lực khác trong khu vực của Mỹ.

Chắc chắn nó cũng hạn chế khả năng của Mỹ về sức mạnh quân sự và ảnh hưởng chính trị ở châu Á.”.

Không thể trông chờ Trung Quốc tự giác tuân thủ luật pháp quốc tế ở Biển Đông

Theo học giả Ely Ratner:

Mặc dù có lợi ích lớn, nhưng Mỹ đã không thể ngăn chặn sự leo thang của Trung Quốc trên Biển Đông.

Washington đã tin rằng, khi Trung Quốc phát triển mạnh hơn và hội nhập sâu hơn vào thế giới, tự nhiên họ sẽ chấp nhận các chuẩn mực và quy tắc quốc tế.

Hoa Kỳ đã nỗ lực giảm bớt sự cạnh tranh của các cuộc đối đầu.

Khi còn là Ngoại trưởng, bà Hillary Clinton đã nói về sự cần thiết phải có câu trả lời mới cho câu hỏi, làm sao tránh được “cái bẫy Thucydides” giữa một siêu cường hiện thời với một cường quốc đang lên.

Cách tiếp cận này đã có những thành công nhất định, ví dụ như Hiệp định chống biến đổi khí hậu Paris, thỏa thuận vấn đề hạt nhân của Iran.

Trong khi đó các quan chức Mỹ – Trung đã liên hệ thường xuyên để giảm thiểu nguy cơ một cuộc khủng hoảng lớn có thể dẫn đến xung đột, đối đầu.

Áp dụng bài học này cho Biển Đông, chính quyền Barack Obama đã gây áp lực lên tất cả các bên yêu sách để giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Để ngăn Trung Quốc sử dụng vũ lực, Hoa Kỳ đă tăng cường sự hiện diện quân sự của mình trong khu vực, đồng thời củng cố liên minh và quan hệ đối tác trong chiến lược tái cân bằng sang châu Á.

Mặc dù Bắc Kinh hiếm khi ghi nhận điều này, Hoa Kỳ đã quan tâm đến việc phái tàu chiến tiến hành các hoạt động tự do hàng hải với khu vực nhiều nước tuyên bố chứ không riêng Trung Quốc.

Chiến lược này đã giúp Mỹ tránh được những cuộc khủng hoảng lớn, nhưng nó lại không thể ngăn được sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.

Năm 2015 Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố trong cuộc họp báo chung với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình:

“Hoa Kỳ hoan nghênh sự trỗi dậy của một Trung Quốc hòa bình, ổn định, thịnh vượng và có trách nhiệm trong các vấn đề toàn cầu.”.

Tuy nhiên Washington chưa từng nói rõ Mỹ sẽ làm gì nếu Bắc Kinh thất bại trong việc đạt được tiêu chuẩn ấy.

Hoa Kỳ muốn tránh mâu thuẫn, ngay cả khi Trung Quốc ngày càng leo thang thách thức luật pháp quốc tế ở Biển Đông.

Theo bản năng, Washington thực hiện các biện pháp để giảm căng thẳng.

Còn Bắc Kinh cứ thế được đằng chân thì lân đằng đầu.

Đây sẽ là một chiến lược hợp lý, nếu tránh chiến tranh là thách thức duy nhất gây ra bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Nhưng thực tế không phải như vậy.

Sức mạnh quân sự Hoa Kỳ và các liên minh của Mỹ tiếp tục ngăn Trung Quốc bắt đầu một cuộc đối đầu với Mỹ, nhưng nó lại không thể hạn chế phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc.

Chính sự lo ngại rủi ro từ phía Hoa Kỳ đã giúp Trung Quốc tiến tới toàn quyền kiểm soát Biển Đông.

Các nhà hoạch định chính sách Mỹ nên thừa nhận rằng, hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông dựa vào nhận thức của họ về khả năng phản ứng của Hoa Kỳ.

Mỹ thiếu phản khảng đã khiến Bắc Kinh kết luận rằng, Hoa Kỳ sẽ không dám hy sinh quan hệ của họ với Trung Quốc chỉ vì Biển Đông.

Kết quả là mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ ngày nay ở châu Á là quyền bá chủ của Trung Quốc, chứ không phải là cạnh tranh quyền lực.

Vai trò lãnh đạo của Mỹ trong khu vực nhiều khả năng sẽ yếu đi.

Tin tốt là, mặc dù Trung Quốc đã có những bước tiến lớn trong việc kiểm soát hoàn toàn Biển Đông, nhưng họ vẫn chưa làm được.”.

Học giả Ely Ratner đề xuất giải pháp chống bành trướng, độc chiếm Biển Đông

“Để hoàn thành mục tiêu này, Trung Quốc phải xây thêm đảo nhân tạo, đặc biệt là ở Scarborough.

Sau đó họ sẽ phải phát triển khả năng chống tiếp cận / chống xâm nhập từ trên biển và trên không, bằng cách triển khai hàng loạt vũ khí tiên tiến như chiến đấu cơ, tên lửa hành trình đánh chặn tên lửa, hệ thống phòng không tầm xa.

Trước đây Hoa Kỳ đã tìm cách ngăn chặn Trung Quốc thực hiện các bước đi như vậy.

Những năm gần đây, Washington đã khuyến khích Bắc Kinh và các bên yêu sách khác áp dụng 3 không ở Biển Đông:

Không bồi lấp mới, không xây dựng cơ sở hạ tầng mới và không quân sự hóa các cơ sở hiện có.

Nhưng Mỹ lại chưa bao giờ giải thích hậu quả của việc thách thức những yêu cầu này. Nhiều lần Mỹ và ASEAN, G-7 hay EU lên án các hoạt động của Trung Quốc.

Nhưng sau mỗi lần lên án, Bắc Kinh lại bỏ ngoài tai, trong khi các nước này không thể lúc nào cũng nhấn mạnh chuyện quân sự hóa.

Phán quyết Trọng tài 12/7/2016 bác bỏ hầu hết yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông vì nó bất hợp pháp theo luật quốc tế.

Hoa Kỳ và các nước kêu gọi Trung Quốc tuân thủ Phán quyết Trọng tài, nhưng không thực hiện bất kỳ bước đi nào để thực thi nó.

Vì vậy Trung Quốc chỉ đơn giản là “nhún vai” bỏ qua, tiếp tục củng cố, quân sự hóa các đảo nhân tạo.

Mặc dù Mỹ tiếp tục các hoạt động mạnh mẽ trong khu vực thông qua tập trận, tuần tra quân sự, nhưng vẫn không nói rõ với Trung Quốc về những gì họ muốn thể hiện cũng như giải thích chính xác, nước Mỹ định làm gì.

Chính bởi lý do ấy, ý tưởng của Tổng thống Donald Trump về việc khôi phục chiến lược “hòa bình qua sức mạnh” của Tổng thống Ronald Reagan bằng cách tăng cường quân đội Hoa Kỳ chưa bao giờ khiến Bắc Kinh lo ngại.

Trung Quốc cũng tin rằng, Hoa Kỳ sẽ chỉ áp đặt những cái giá nho nhỏ cho những hành động sai trái của Trung Quốc mà thôi.

Cho dù Mỹ có bao nhiêu tàu chiến, máy bay và vũ khí hạt nhân, tính toán ấy sẽ không thay đổi.

Hoa Kỳ cần đưa ra một cảnh báo rõ ràng rằng:

Nếu Trung Quốc tiếp tục xây dựng đảo nhân tạo hoặc đặt các vũ khí trang bị quân sự hạng nặng, như tên lửa tầm xa hay máy bay chiến đấu lên những đảo nhân tạo đã có, Mỹ sẽ thay đổi cơ bản chính sách với Biển Đông.

Thay vì trung lập, Hoa Kỳ sẽ ngừng kêu gọi kiềm chế, ngược lại sẽ tăng cường các nỗ lực để giúp các nước trong khu vực nâng cao khả năng tự vệ, chống lại sức ép từ Trung Quốc.

Trong trường hợp này Hoa Kỳ sẽ làm việc với các nước khác có yêu sách để thu hồi vùng lãnh thổ bị (Trung Quốc) chiếm đóng và củng cố các căn cứ của họ.

Mỹ cũng sẽ tiến hành các cuộc tập trận chung với quân đội các nước này, bán cho họ loại vũ khí có khả năng phản công với giá cả phải chăng, để chống lại sức ép quân sự của Trung Quốc trong khu vực.

Những vũ khí này có thể bao gồm máy bay trực thăng giám sát, ngư lôi, tên lửa đất đối hạm, tàu đổ bộ tấn công nhanh và hệ thống phòng không di động.

Một chương trình như thế này sẽ làm cho những nỗ lực của Trung Quốc nhằm thống trị vùng biển, vùng trời quốc tế sẽ có nhiều rủi ro hơn với Bắc Kinh.

Hoa Kỳ sẽ không đặt mục tiêu tích lũy đủ lực lượng tập thể để đánh bại quân đội Trung Quốc hay kiểm soát một vùng biển lớn.

Thay vào đó là mục tiêu làm cho các đối tác trong khu vực đủ khả năng từ chối Trung Quốc tiếp cận các tuyến đường thủy quan trọng dọc theo bờ biển của họ.

Bắc Kinh sẽ không thỏa hiệp cho đến khi nào họ đạt được điều họ muốn.

Hoa Kỳ nên tìm kiếm sự giúp đỡ từ các đồng minh và đối tác đã có quan hệ chặt chẽ.

Nhật Bản có thể là một lựa chọn có giá trị, vì nước này đã xem Trung Quốc là một mối đe dọa và Nhật đã hợp tác chặt chẽ với một số nước ven Biển Đông, đồng thời thúc đẩy các biện pháp phòng vệ chống bành trướng trên biển Hoa Đông.

Trong khi đó Australia có quan hệ gần gũi với Indonesia và Malaysia hơn so với Hoa Kỳ, Ấn Độ có quan hệ gần gũi với Việt Nam hơn.

Australia và Ấn Độ có thể cung cấp cho các nước này sự trợ giúp đáng kể về quân sự, hơn là Washington.

Nếu Bắc Kinh vẫn từ chối thay đổi lộ trình, Washington nên đàm phán các hiệp định mới với các đối tác trong khu vực, để cho phép Hoa Kỳ và các lực lượng thân thiện khác thường xuyên thăm viếng một số căn cứ.

Trong một số trường hợp, quân đội Hoa Kỳ đàm phán để được đóng quân vĩnh viễn trên các căn cứ của họ ở Biển Đông.

Mỹ cần cân nhắc việc tiếp cận đảo Ba Bình hiện do Đài Loan chiếm đóng, đảo Thị Tứ do Philippines chiếm đóng hoặc đảo Trường Sa mà Việt Nam đang kiểm soát.

Đây là 3 hòn đảo tự nhiên lớn ở Trường Sa.

Ngoài việc giúp quân đội Hoa Kỳ và đối tác thường xuyên huấn luyện cùng nhau, các lực lượng đóng trên các đảo này sẽ tạo ra các ngòi nổ mới với Trung Quốc, làm tăng nguy cơ liên quan đến khả năng cưỡng chế quân sự.

Việc này sẽ đưa Bắc Kinh trở lại với một sự lựa chọn khốc liệt:

Tiếp tục quân sự hóa Biển Đông và chống lại các nước có nền tảng quân sự ngày càng tiên tiến do Hoa Kỳ hậu thuẫn, hay từ bỏ kế hoạch thay đổi hiện trạng và làm việc nghiêm túc để tìm ra một giải pháp ngoại giao.

Để chiến lược này thành công, các nước trong khu vực sẽ cần đầu tư nhiều hơn cho quân đội và hợp tác chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ.

Việt Nam đã mua một đội tàu ngầm đắt tiền từ Nga, Đài Loan gần đây công bố kế hoạch phát triển tàu ngầm của riêng mình.

Indonesia đã tăng cường các cuộc tập trận ở quần đảo Natuna giàu tài nguyên, và Philppines không hủy bỏ kế hoạch cho phép máy bay, tàu chiến Mỹ truy cập các căn cứ, bất chấp những tuyên bố của Tổng thống Rodrigo Duterte.

Nhưng vẫn còn những rào cản đáng kể phía trước, khi nhiều quốc gia trong khu vực sợ rằng Trung Quốc sẽ trả đũa nếu họ trở thành đối tác của Hoa Kỳ.

Sau khi Tổng thống Donald Trump rút Mỹ khỏi TPP, các nước Đông Nam Á ngày càng tin rằng Trung Quốc sẽ thống trị trật tự kinh tế khu vực. Thậm chí nhiều người đang quan tâm đến viễn cảnh đó.

Nhận thức này sẽ khiến các nước lo ngại, không muốn tham gia các hoạt động quân sự với Hoa Kỳ vì lo bị Trung Quốc trả thù.

Cách duy nhất để Washington ngăn chặn xu hướng nguy hiểm này là đưa ra một giải pháp khả thi giúp các nước không bị phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế.

Điều này có nghĩa là Mỹ có thể phải đưa ra một phiên bản khác của TPP hoặc đề xuất sáng kiến mới về thương mại, đầu tư trong khu vực.

Hoa Kỳ không thể tay không bắt giặc.

Washington cũng nên làm nhiều hơn để hỗ trợ nội bộ các nước có yêu sách trên Biển Đông bằng cách phổ biến rộng rãi thông tin về hoạt động của Trung Quốc trên biển.

Hiện tại các nhà báo và các chuyên gia quốc phòng phải dựa vào hình ảnh vệ tinh thương mại lẻ tẻ và không đầy đủ để tìm hiểu hết các hành động của Trung Quốc.

Chính phủ Hoa Kỳ nên bổ sung những báo cáo và hình ảnh thường niên về triển khai vũ khí của Trung Quốc, cũng như các tàu hải quân, tàu tuần tra, tàu cá Trung Quốc do chính phủ hậu thuẫn, hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải của các nước khác.

Các nước trong khu vực sẽ có nhiều khả năng hợp tác với Washington nếu họ có thể tin tưởng vào Hoa Kỳ để duy trì luật pháp quốc tế.

Để đạt được mục đích đó, hải quân Mỹ nên thường xuyên tuần tra tự do hàng hải trên Biển Đông, chứ không phải chỉ khi nào Washington muốn ghi bàn về ngoại giao.

Những người chỉ trích giải pháp ngăn cản bành trướng bằng sức mạnh sẽ lập luận rằng, điều này sẽ chỉ kích thích Trung Quốc tăng gấp đôi tốc độ quân sự hóa.

Nhưng trong vài năm gần đây, Hoa Kỳ đã chứng minh rằng, bằng cách truyền đạt những hậu quả “đáng tin cậy”, họ có thể làm thay đổi hành vi của Trung Quốc.

Năm 2015 khi chính quyền Obama đe dọa áp đặt các biện pháp trừng phạt để đáp trả hoạt động trộm cắp bí mật thương mại Hoa Kỳ mà chính phủ Trung Quốc bảo vệ, Bắc Kinh đã nhanh chóng kiềm chế các hoạt động của họ trên không gian mạng.

Trong những tháng cuối trước lúc ông Barack Obama rời Nhà Trắng, Bắc Kinh lại bắt đầu kiềm chế các doanh nghiệp nước này làm ăn bất hợp pháp với Triều Tiên sau khi Washington cảnh báo sẽ áp dụng biện pháp trừng phạt tài chính với các công ty Trung Quốc trốn tránh các lệnh trừng phạt chống Bình Nhưỡng.

Hơn nữa sự thúc đẩy mạnh mẽ của Hoa Kỳ không giống như một số người khẳng định, rằng nó có thể làm dấy lên xu thế diều hâu trong lãnh đạo Trung Quốc.

Trên thực tế, những người ủng hộ quân sự hóa Biển Đông ở Bắc Kinh phần nhiều là bởi họ nhận định Hoa Kỳ không công bằng, chứ không phải hiếu chiến.

Cơ hội thực sự duy nhất cho một giải pháp hòa bình với Biển Đông là ngăn chặn đà bành trướng của Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ không chịu thỏa hiệp, chừng nào họ vẫn thấy có thể lấn tới.

Và trong trường hợp Trung Quốc không từ bỏ đường lối bành trướng, Hoa Kỳ có thể “sống chung với Biển Đông được quân sự hóa mạnh mẽ hơn”, miễn là cán cân lực lượng không bị nghiêng quá nhiều về phía Trung Quốc.

Đảm bảo rằng các nước trong khu vực có thể đóng góp vào việc ngăn chặn sự xâm lược, bành trướng của Trung Quốc sẽ tạo ra sự ổn định, hơn là chỉ trông chờ vào thiện chí của Trung Quốc, hay một mình quân đội Hoa Kỳ “canh giữ cho hòa bình”.

Phải thừa nhận rằng, với rất nhiều lực lượng vũ trang hoạt động trong một môi trường căng thẳng như vậy, các nước cần phải xây dựng các cơ chế mới để quản lý khủng hoảng, tránh leo thang không lường trước được.

Cuối cùng, một số nhà phê bình về chiến lược mạnh mẽ hơn của Mỹ ở Biển Đông đã tuyên bố rằng, Biển Đông đơn giản là không đáng để gây rắc rối, vì phạm vi cảnh hưởng của Trung Quốc có thể trở nên lành tính.

Nhưng sự sẵn sàng sử dụng áp lực kinh tế và quân sự của Bắc Kinh phục vụ các mục đích chính trị đã ngày một trở nên mạo hiểm, phiêu lưu hơn.”.

Cá nhân người viết cho rằng, những bình luận của học giả Ely Ratner rất có giá trị tham khảo để các bên liên quan ở Biển Đông tính tới, trong trường hợp cây muốn lặng mà gió chẳng đừng.

Tuy nhiên ở thời điểm hiện tại, những diễn biến về cục diện Biển Đông cho thấy đề xuất của ông Ely Ratner ít có khả năng xảy ra trong thực tế, cho dù có thể đó là mong muốn của nhiều người.

Những phân tích, nhận định và đề xuất của học giả Ely Ratner không đại diện cho quan điểm chính thức của chính phủ Hoa Kỳ, mà đó là quan điểm cá nhân nhà nghiên cứu.

Chúng tôi dẫn lại bình luận này của ông với mong muốn cung cấp thêm cho quý bạn đọc và các nhà hoạch định chính sách có thêm thông tin, đánh giá từ một học giả Hoa Kỳ nghiên cứu sâu về Biển Đông, cũng như đánh giá của ông về chính sách của Hoa Kỳ, Trung Quốc.

Ngoài ra chúng tôi không bình luận gì thêm về các nhận định, đề xuất của học giả Ely Ratner, bởi bản thân nó là một quan điểm cá nhân và cũng khá bao quát vấn đề.

RELATED ARTICLES

Tin mới