Hãng tin Bloomberg mới đây có một bài phân tích về những được mất khi Việt Nam trở thành “con hổ mới nhất” trong số các nền kinh tế tại Châu Á.
Theo bài phân tích, quy mô kinh tế của Việt Nam đã tăng gấp hơn 2 lần trong vòng 8 năm qua, trở thành một quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao tại một khu vực đang tăng trưởng đứng đầu thế giới.
Tuy nhiên, Việt Nam giờ đây đã “đủ giàu” nên không còn thỏa mãn điều kiện để nhận được từ các tổ chức quốc tế những khoản vay ưu đãi, với lãi suất thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung.
Việt Nam không còn thuộc diện được nhận những khoản vay ưu đãi của Ngân hàng Thế giới từ cuối tháng 6/2017, và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) giờ đây cũng xếp Việt Nam vào nhóm nước vay vốn “hỗn hợp” – tức là không còn được vay vốn với lãi suất ưu đãi nhất.
Với điều kiện này, Bloomberg cho rằng Việt Nam giờ đây sẽ phải nhờ đến nhiều hơn nguồn vốn từ thị trường trái phiếu, theo đó có thể thúc đẩy nguồn cung trái phiếu của nhóm thị trường mới nổi mà các nhà đầu tư toàn cầu đang thấy hứng thú trong những năm gần đây.
Ông Sebastian Eckardt, một chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Thế giới, cho rằng khi Việt Nam Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, nhu cầu tài chính sẽ tăng nhanh, và các nguồn cấp vốn chính thức sẽ không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển, nên tiền sẽ phải được huy động thêm từ thị trường vốn. Tuy nhiên, đây cũng là dấu hiệu rõ ràng về sự phát triển thành công của Việt Nam.
Số liệu của Bloomberg cho thấy khoảng 70% trong số 13,2 tỷ USD trái phiếu của Việt Nam được phát hành trong nước, và 30% được phát hành bằng đồng USD. Lần phát hành trái phiếu quốc tế gần đây nhất được Việt Nam thực hiện vào tháng 11/2014 với khối lượng 1 tỷ USD, thời hạn 10 năm với lãi suất 4,8%.
Theo một quan chức quản lý nợ của Bộ Tài chính, Việt Nam đang lên kế hoạch tăng cường đi vay từ thị trường trong nước. Thị trường nội địa có thể đáp ứng nhu cầu tài chính ở thời điểm hiện tại, nhưng trong tương lai khả năng sẽ vẫn cần đi vay nợ trên thị trường nước ngoài.
Tuy nhiên, trái phiếu Việt Nam đang bị các hãng định mức tín nhiệm lớn xếp ở hạng không khuyến nghị đầu tư, nên Việt Nam phải trả mức lợi suất cao hơn so với Indonesia hay Philippines – những nước trong khu vực mới được nâng lên hạng “đầu tư” những năm gần đây.
Theo tính toán của Bộ Tài chính, Việt Nam sẽ nhận được tổng cộng khoảng 45 tỷ USD vốn hỗ trợ phát triển tính từ năm 2005 đến năm 2020. Các khoản vốn này trước năm 2010 có lãi suất 0,7-0,8%/năm và thời hạn trả nợ trung bình từ 30-40 năm, từ năm 2011-2015 lãi suất tăng lên 2%/năm và thời hạn trả nợ rút ngắn còn 10-20 năm. Khi các điều kiện ưu đãi không còn, lãi suất đối với các khoản vay bị đẩy lên 3,5%/năm và thời hạn thanh toán bị rút ngắn một nửa.
Ngoài việc tăng cường tham gia vào thị trường vốn, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cũng có thể xem xét bán tài sản và cải cách thuế để huy động vốn.