Friday, November 29, 2024
Trang chủĐàm luậnCăng thẳng tranh chấp lãnh thổ trên biển tại Châu Á (Phần...

Căng thẳng tranh chấp lãnh thổ trên biển tại Châu Á (Phần 1)

Dù các căng thẳng giữa Trung Quốc và một loạt các quốc gia láng giềng đã trở nên tươi sáng đáng kể vào nửa cuối năm 2014, nhưng những yếu tố thúc đẩy xung đột vẫn có hiệu lực, trước hết bao gồm các tuyên bố chủ quyền xung đột, các nhận thức chiến lược sai lầm và các khái niệm về trật tự khu vực cạnh tranh với nhau.

Trung Quốc xây trạm xăng dầu trái phép tại Hoàng Sa

 Trong 5 năm qua, các căng thẳng giữa Trung Quốc và một loạt các quốc gia láng giềng trên Biển Đông và biển Hoa Đông đã trở nên trầm trọng, mà đôi khi thậm chí có nguy cơ dẫn tới xung đột vũ trang. Trước hết, cách hành xử ngày càng hung hăng của Trung Quốc đã củng cố những nỗi lo sợ rằng các xung đột sôi sục từ lâu có thể leo thang.

Bức tranh u ám này đã trở nên tươi sáng một cách đáng kể vào nửa cuối năm 2014. Trước thềm nhiều hội nghị thượng đỉnh quốc tế quan trọng khác nhau trong khu vực, như Hội nghị thượng đỉnh ASEAN và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, kể từ tháng 11/2014 đã có những sự xích lại gần nhau một cách thận trọng giữa các bên xung đột và một sự giảm căng thẳng trong tình hình an ninh.

Tuy nhiên, những yếu tố thúc đẩy xung đột vẫn có hiệu lực. Những yếu tố này trước hết bao gồm các tuyên bố chủ quyền xung đột, các nhận thức chiến lược sai lầm và các khái niệm về trật tự khu vực cạnh tranh với nhau.

Những tranh cãi về chủ quyền trên Biển Đông và biển Hoa Đông là đặc trưng không chỉ cho các cán cân sức mạnh đang thay đổi trong không gian châu Á-Thái Bình Dương, mà còn cho những khác biệt trong các khái niệm về trật tự khu vực của Mỹ và Trung Quốc, mà cho đến nay người ta chưa nhận thấy một sự hội tụ nào trong các khái niệm này. Vì vậy, các bên xung đột không rõ đối thủ sẽ hành xử như thế nào trong tương lai. Sự không chắc chắn về mặt chiến lược cũng sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng lên những diễn biến trong khu vực.

Về mặt chính sách đối ngoại, với những hành vi đe dọa của mình, trong những năm qua Trung Quốc đã khiến các nước láng giềng hợp tác với nhau chống lại chính nước này. Trên thực tế, Trung Quốc đã làm được một điều dường như không thể thực hiện được đối với Chính phủ Mỹ: Họ đã đẩy những nước láng giềng chống Mỹ như Việt Nam vào vòng tay của Washington và khuyến khích một sự cộng tác mới và mạnh mẽ giữa Mỹ và Philippines.

Tuy nhiên trong những tháng vừa qua, Bắc Kinh dường như ít dựa vào đối đầu hơn và hành xử hòa giải hơn với Nhật Bản, Việt Nam và Philippines. Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã ghi nhận trong khoảng thời gian từ tháng 1 tới tháng 10/2014, trung bình mỗi tháng chỉ có 7 vụ xâm nhập của tàu tuần tra Trung Quốc vào vùng biển Nhật Bản tuyên bố chủ quyền, trong khi vào năm 2013 có trung bình 16 vụ mỗi tháng.

Và tại Hội nghị thượng đỉnh APEC đã diễn ra cuộc gặp giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, theo sau cuộc gặp này cả hai nước đã đưa ra những tuyên bố chính thức về vấn đề tranh chấp biển đảo. Lần đầu tiên, Nhật Bản thừa nhận trong tranh chấp này có những quan điểm khác nhau. Ban lãnh đạo Nhật Bản từ lâu đã từ chối thảo luận về những đòi hỏi của Trung Quốc. Sự nhượng bộ của Nhật Bản được đánh giá như là bước tiến quan trọng để khôi phục các quan hệ Trung-Nhật.

Tập Cận Bình cũng đã gặp Tổng thống Philippines Benigno Aquino tại Hội nghị thượng đỉnh APEC. Sau đó, Aquino cũng tuyên bố có những dấu hiệu cho một sự xích lại gần nhau giữa hai nước. Trong những tuần trước Hội nghị thượng đỉnh APEC, Việt Nam và Trung Quốc cũng đã xích lại gần nhau sau nhiều tháng tranh cãi về quần đảo Hoàng Sa trên Biển Đông. Trong đó, cả hai bên đã thống nhất thiết lập một đường dây nóng để tránh những xung đột trên biển. Trước đó, Bắc Kinh đã di dời một giàn khoan khỏi vùng biển Việt Nam tuyên bố chủ quyền.

Các xung đột lãnh thổ chưa được giải quyết

Bất chấp sự giảm căng thẳng hiện nay, các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và biển Hoa Đông cho tới nay chưa được chấm dứt một cách hòa bình. Các quan hệ ngoại giao của Trung Quốc vẫn chịu ảnh hưởng của các xung đột trên biển về các đảo, đảo san hô và toàn bộ vùng biển. Sự gia tăng quyền lực và cách hành xử ngày càng hung hăng của Bắc Kinh tại châu Á trong những năm qua đã làm gia tăng sự thiếu tin tưởng đối với Trung Quốc và tạo ra ấn tượng rằng nước này đang theo đuổi một sự trỗi dậy hoàn toàn không hòa bình.

Kể từ năm 2009, Trung Quốc thường xuyên có những cử chỉ đe dọa, tàu Trung Quốc tấn công tàu cá và các tàu khác, và nước này cũng không ngại ngần trước việc chiếm đoạt các lãnh thổ đang tranh chấp. Vào đầu những năm 2000, Trung Quốc đã khởi động “chính sách gây cảm tình” và thể hiện bản thân như là một đối tác thương mại hấp dẫn và đáng tin cậy. Nhưng hiện nay, hình ảnh của Trung Quốc tại Đông Á đã thay đổi, quốc gia này giờ được coi như là mối đe dọa tiềm tàng cho sự ổn định của khu vực.

Tranh chấp lãnh thổ được biết đến nhiều nhất liên quan tới 5 hòn đảo ở biển Hoa Đông, cách Đài Loan gần 200km về phía Đông Bắc, cách Okinawa 400km về phía Tây và cách Trung Quốc Đại lục 300km về phía Đông. Trong tranh chấp Trung-Nhật đối với quần đảo Nhật Bản gọi là Senkaku, còn Trung Quốc gọi là Điếu Ngư, vấn đề không chỉ nằm ở nguồn cá và nguyên liệu thô (dầu mỏ và khí đốt) dồi dào.

Thứ nhất, những tuyên bố chủ quyền và đường ranh giới có thể giữa Trung Quốc và Nhật Bản còn gây tranh cãi; thứ hai, quần đảo này có tầm quan trọng lớn về địa chiến lược; và thứ ba, quần đảo này là những biểu tượng quốc gia. Câu hỏi về việc bên nào nên giữ hay trả lại quần đảo này vì vậy có ý nghĩa chính trị rất lớn. Nếu Trung Quốc thành công trong việc dùng vũ lực chiếm lấy quần đảo này bất chấp sự kháng cự của Nhật Bản, việc này sẽ là một tổn thất quyền lực nghiêm trọng đối với Mỹ. Hậu quả là niềm tin của Nhật Bản vào liên minh an ninh với Mỹ sẽ bị tổn hại sâu sắc. Về mặt này, tranh chấp biển đảo này cũng là một phần trong sự ganh đua quyền lực Mỹ-Trung.

Vào ngày 23/11/2013, Bắc Kinh đã thiết lập một Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông. Qua hành động này, Bắc Kinh đã nhấn mạnh yêu sách của mình là không chỉ kiểm soát quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, mà còn cả khu vực bao quanh, chồng lấn lên các ADIZ đã được thiết lập trước đó của Hàn Quốc và Đài Loan.

Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, Tướng Thường Vạn Toàn, đã nhấn mạnh vào tháng 4/2014 rằng Trung Quốc có “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư và sẽ “không có sự thỏa hiệp, nhượng bộ, thỏa thuận” trong vấn đề này. Ngược lại, trong chuyến thăm Nhật Bản vào tháng 4/2014, Barack Obama với tư cách tổng thống Mỹ đầu tiên đã khẳng định rằng sự bảo vệ quần đảo này được đảm bảo thông qua điều 5 của hiệp ước an ninh song phương giữa Mỹ và Nhật.

Bên cạnh tranh chấp biển đảo giữa Nhật Bản và Trung Quốc, trên Biển Đông cũng tồn tại tranh chấp lãnh thổ kéo dài. Dựa theo các tấm bản đồ và tài liệu lịch sử, Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền đối với phần lớn diện tích vùng biển này, được đánh dấu bởi cái gọi là “đường 9 đoạn”.

Ngoài Trung Quốc, một loạt bãi đá ngầm và đảo san hô nằm trong khu vực được đường này đánh dấu, cũng được Philippines, Malaysia, Đài Loan, Brunei và Việt Nam tuyên bố chủ quyền một phần hoặc toàn bộ. Mỹ lại tham gia cuộc chơi khi tuyên bố rằng tự do hàng hải trong khu vực này là lợi ích quốc gia. Theo quan điểm của Washington, các tuyên bố chủ quyền như vậy cần được dựa trên nền tảng luật pháp quốc tế và vì vậy “đường 9 đoạn” của Bắc Kinh là không hợp pháp. Do các nghĩa vụ liên minh đối với Philippines, Mỹ cũng có thể can dự trong trường hợp xảy ra xung đột quân sự.

Đặc biệt, Philippines và Việt Nam có xung đột gay gắt với Trung Quốc. Những tranh chấp mới đây với Manila đã bùng nổ khi một tàu chiến của Philippines muốn đuổi tàu cá Trung Quốc khỏi bãi cạn Scarborough thuộc quần đảo Trường Sa.

Các tàu cá này được cho là đã đánh bắt những loài cá bị đe dọa trong Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Philippines. Mỹ đã làm trung gian hòa giải giữa hai bên vào tháng 6/2012.

Nhưng chỉ có tàu Philippines rút đi theo như thỏa thuận. Kể từ đó, khu vực này trên thực tế bị các tàu Trung Quốc kiểm soát. Do hành động này, Manila sau đó đã khởi kiện Trung Quốc tại Tòa án quốc tế về luật biển. 

Chủ đề của các xung đột hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam là quần đảo Hoàng Sa, bị Trung Quốc kiểm soát từ năm 1974. Khi Hà Nội thông qua một đạo luật tuyên bố quần đảo này thuộc lãnh thổ Việt Nam vào năm 2012, Bắc Kinh đáp trả với việc thiết lập thành phố Tam Sa bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Vào tháng 5/2014, Trung Quốc đã đặt một giàn khoan trong vùng biển của Việt Nam, phía Nam quần đảo Hoàng Sa. Trong khi Trung Quốc coi khu vực biển này là lãnh thổ của mình, Việt Nam lại cho rằng đây là một phần Vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Điều rõ ràng là việc hạ đặt giàn khoan tại đó là một sự khiêu khích rõ ràng.

Căng thẳng gia tăng khi các tàu Trung Quốc bao vây, đâm thủng và đánh chìm một tàu cá gần bờ của Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa – theo như miêu tả của Hà Nội. Bắc Kinh lại tuyên bố rằng tàu Việt Nam đã xâm nhập vùng biển này, đâm vào một tàu của Trung Quốc và do đó bị lật úp. Hiện nay, giàn khoan này đã được dời đi, trao đổi giữa Hà Nội và Bắc Kinh ở cấp độ ngoại giao đã được tăng cường trong những tháng vừa qua. Bất chấp việc này, vào tháng 10/2014, Trung Quốc đã công bố xây dựng một đường băng trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Trường Sa đang tranh chấp.

Cùng thời điểm này, Trung Quốc đã đổ cát lên Đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Tại các vùng biển (ví dụ như Bãi Tư Chính) cũng được Việt Nam tuyên bố chủ quyền, các tàu nghiên cứu của Trung Quốc đã thực hiện các hoạt động thăm dò, với sự hộ tống của các tàu chiến.

Thêm nữa, dù cho tới nay về cơ bản có Nhật Bản, Việt Nam và Philippines có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, nhưng hiện nay nhiều người lo ngại rằng trong tương lai gần cả Indonesia cũng có thể bị kéo vào các cuộc xung đột. Từ trước tới nay, Jakarta đã luôn nhấn mạnh vai trò của mình như là bên tham gia không có tuyên bố chủ quyền và thúc giục tìm ra một giải pháp hòa bình cho các tranh chấp.

Đồng thời, Chính phủ Indonesia đã chính thức phản đối các đòi hỏi của Trung Quốc đối với các khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế quanh quần đảo Natuna của Indonesia. Nhưng Chính phủ Indonesia cũng tránh đề cập tới một cuộc xung đột lãnh thổ với Trung Quốc. Vì theo quan điểm của Indonesia, hành động này sẽ đem lại một sự đảm bảo chắc chắn cho các đòi hỏi của Trung Quốc.

Cho tới nay, Jakarta vẫn nỗ lực không đặt câu hỏi về sự hợp tác chiến lược với Trung Quốc tồn tại từ năm 2005. Nhưng việc các tàu Trung Quốc xâm nhập ngày càng thường xuyên hơn vào các vùng biển của Indonesia xung quanh quần đảo Natuna khiến nước này lo ngại hơn. Vì vậy vào tháng 2/2014, quân đội Indonesia đã công bố các kế hoạch, trong đó căn cứ quân sự trên quần đảo Natuna sẽ được tăng cường một phi đội máy bay chiến đấu Sukhoi và 4 máy bay trực thăng tấn công Apache. Nhưng điều này không đồng nghĩa với một sự thay đổi hoàn toàn trong quan hệ Trung Quốc-Indonesia. Tuy nhiên, những lo ngại đang gia tăng về việc Indonesia có thể đánh mất vai trò của mình như là “nhà trung gian thành thực” trong các xung đột về quyền kiểm soát Biển Đông.

(Còn tiếp)

RELATED ARTICLES

Tin mới