Từ năm 2013, Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải tạo phi pháp quy mô lớn 7 bãi đá ngầm Chữ Thập, Ga Ven, Châu Viên, Gạc Ma, Tư Nghĩa, Vành Khăn và Xu Bi (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam) thành các đảo nhân tạo. Đến giữa năm 2015, Trung Quốc tiếp tục tiến hành cải tạo phi pháp đảo Phú Lâm, Duy Mộng và Quang Hòa (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bị Trung Quốc xâm chiếm trái phép năm 1956 và 1974). Trong quá trình cải tạo phi pháp, Trung Quốc đã sử dụng các máy hút bùn công suất lớn, nạo vét các rặng san hô xung quanh để tạo thành các đảo nhân tạo. Sau đó, Trung Quốc đã cho xây dựng nhiều công trình quân sự và dân sự trên các đảo nhân tạo, biến khu vực này thành những căn cứ quân sự kiên cố của Bắc Kinh. Hoạt động cải tạo phi pháp của Trung Quốc đã phá hủy gần như toàn bộ môi trường sinh thái xung quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Môi trường sinh thái Biển Đông trước và sau khi Trung Quốc cải tạo phi pháp
Trung Quốc đã phá hủy hệ sinh thái biển như thế nào:
Biển Đông là một trong những khu vực có hệ sinh thái biển đa dạng nhất thế giới, chiếm tới 76% các chủng loại san hô thế giới và 37% các loại cá sinh sống trong các rạn san hô. Theo Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC), mỗi thập kỷ sẽ có 30% cỏ mọc dưới đấy biển, 16% các rạn san hô sống mất đi do ô nhiễm môi trường và khai thác tận diệt thiếu bền vững.
Tuy nhiên, hoạt động cải tạo phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông đã gây ra những hậu quả thảm khốc đối với môi trường sinh thái. Theo tính toán của các chuyên gia, Bắc Kinh xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa và Hoàng Sa đã tàn phá tới 160km2 rạn san hô và phá hủy gần 60km2 san hô vòng ở các khu vực xung quanh. Ông John McManus, Đại học Miami nhận định khoảng 10% diện tích san hô tại quần đảo Trường Sa và 8% diện tích san hô ở Hoàng Sa đã bị xóa sổ hoàn toàn do hoạt động của Trung Quốc gây ra. Theo Giáo sư Edgado Gomez (Philippines) ước tính rằng với mức độ phá hủy san hô hiện tại sẽ khiến các quốc gia ven biển trong khu vực Đông Nam Á phải gánh chịu thiệt hại 5,7 tỷ USD/năm, gây tác động tiêu cực xuyên biên giới.
Bên cạnh đó, hoạt động khai thác hải sản ồ ạt, bất hợp pháp, mang tính hủy diệt của ngư dân Trung Quốc ở các cùng chồng lấn trong khu vực Biển Đông đã gây ra suy giảm hệ sinh thái biển và nguy cơ tuyệt chủng của một số loài. Theo tài liệu của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington D.C. (Mỹ) công bố tháng 9/2017, tổng lượng cá ở Biển Đông đã suy giảm khoảng 70-95% kể từ những năm 1950 và tỷ lệ đánh bắt đã giảm 66-75% trong 20 năm qua; hiện ở Biển Đông có thể chỉ còn 5% lượng cá so với thập niên 1950 và quá trình phục hồi các nguồn cá ở Biển Đông hiện nay rất thấp.
Ngoài ra, cùng với việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo và đưa lượng lớn binh lính ra đồn trú phi pháp ở Biển Đông cũng gián tiếp tác động, phá hủy môi trường sinh thái. Theo đánh giá của các chuyên gia, trong quá trình Trung Quốc đưa quân ra đồn trú, sinh hoạt đã thải các kim loại nặng, chất ô nhiễm hữu cơ bền (POPs) và nước thải có thể chứa các kim loại nặng hoặc chất ô nhiễm hữu cơ bền trực tiếp ra biển mà không được xử lý gây những tác động rất nghiêm trọng tới môi trường và các hệ sinh thái biển. Không những vậy, việc xây dựng các công trình phi pháp ở Trường Sa và Hoàng Sa của Trung Quốc cũng làm thay đổi trường sóng và dòng chảy tại các khu vực biển gần bờ, tác động xấu tới hệ sinh thái biển cũng như làm thay đổi điều kiện đáy biển và cán cân bùn cát, trực tiếp phá hủy hệ sinh thái biển.
Khả năng khôi phục của hệ sinh thái và môi trường ở Biển Đông:
Đối với các rạn san hô: Theo đánh giá của giới khoa học thì các rạn san hô tại khu vực Trường Sa tương đối nhỏ so với các hệ san hô lớn khác trên Trái Đất; song rất ít khả năng phục hồi được rạn san hô ở khu vực Trường Sa. San hô ở Trường Sa đã được hình thành cả trăm triệu năm và sự phát triển của san hô rất chậm nên khó có khả năng phục hồi được trong thời gian ngắn, mà có khi cần đến hàng nghìn năm mới khôi phục được phần nào.
Đối với nguồn cá và sinh vật biển khác: Theo nghiên cứu của Đại học British Columbia (Canada) vào năm 2015 cho thấy hiện nay khoảng 20% số đàn cá trong Biển Đông đang phục hồi, 50% số đàn cá đang bị khai thác ở mức đe dọa suy thoái và 30% số đàn cá đã bị khai thác và suy thoái tới mức gần như không còn khả năng phục hồi. Nguồn hải sản không có khả năng phục hồi hoặc phục hồi chậm chủ yếu là do hoạt động cải tạo phi pháp, phá hủy môi trường sinh thái của Trung Quốc khiến các loại sinh vật mất môi trường sống, đẻ trứng và nuôi con non. Ngoài ra việc Chính phủ Trung Quốc không kiểm soát, quản lý ngư dân, để người dân khai thác quá mức, khai thác bất hợp pháp và sử dụng phương pháp đánh bắt mang tính chất hủy diệt (ngư dân đã dùng các phương tiện đánh bắt có tính hủy diệt như lưới mắt nhỏ, giã cào, điện, đèn công suất cao, thuốc nổ, chất độc xyanua… ) khiến nguồn cá và các sinh vật khác, đặc biệt là những sinh vật có giá trị kinh tế cao (rùa biển, trai biển…) không có khả năng phục hội.
Hành động của Trung Quốc không những đi ngược lại lợi ích của cộng đồng quốc tế mà còn vi phạm luật pháp quốc tế:
Đầu tiên, việc Trung Quốc xây dựng 7 hòn đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa đã vi phạm các nghĩa vụ về bảo vệ môi trường trong khuôn khổ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) được quy định tại Điều 123, Điều 192, Điều 205 và Điều 206. Theo Điều 206 của UNCLOS quy đinh, “các quốc gia có cơ sở vững chắc để chứng minh rằng kế hoạch mà họ dự định tiến hành tại những khu vực mà họ có quyền tài phán hoặc quyền kiểm soát có thể khiến môi trường tại đó ô nhiễm hoặc tạo ra những thay đổi xấu tới môi trường biển thì các quốc gia đó phải đánh giá tác động của các hoạt động này đối với môi trường và phải công bố kết quả đánh giá theo quy định được nêu trong Điều 205”. Điều 123 UCNLOS đã quy định: Các quốc gia xung quanh vùng biển nửa kín như Biển Đông có nghĩa vụ hợp tác bảo vệ môi trường biển và quản lý nguồn cá. Bởi các tài nguyên sinh vật biển tự do di chuyển đến tất cả các khu vực khác nhau mà không cần sự cho phép của thẩm quyền quốc gia. Điều 192 UNCLOS cũng quy định nghĩa vụ chung cho các quốc gia “bảo vệ và bảo tồn môi trường biển”.
Thứ hai, Trung Quốc cũng vi phạm Tuyên bố ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) năm 2002, khi không thực hiện những điều khoản trong DOC về bảo vệ môi trường sinh thái. DOC đã nêu rõ “trong khi chờ đợi một giải pháp bền vững và toàn diện đối với các xung đột, các bên liên quan có thể khai thác hoặc tiến hành các hoạt động hợp tác. Những hoạt động này có thể bao gồm: a) bảo vệ môi trường biển; b) nghiên cứu khoa học biển…”.
Làm thế nào để bảo vệ môi trường sinh thái và nguồn lợi thủy sản ở Biển Đông?
Đầu tiên, Trung Quốc cần phải chấm dứt ngay các hoạt động phi pháp ở Biển Đông, bao gồm việc đưa binh lính ra triển khai trên các thực thể nhân tạo ở Trường Sa và nạo vét, cải tạo các đảo đá đang chiếm đóng. Bắc Kinh cũng cần triển khai các biện pháp hữu hiệu để quản lý, ngăn chặn ngư dân của họ đánh bắt tận diệt các loài hải sản ở Biển Đông. Ngoài ra, Trung Quốc phải có trách nhiệm và nghĩa vụ trong việc khôi phục môi trường sinh thái ở Biển Đông, không thể để tình trạng mình Trung Quốc phá hủy hệ sinh thái mà tất cả các nước trong khu vực phải gánh chịu hậu quả.
Thứ hai, các nước trong khu vực cần triển khai ngay kế hoạch quản lý nghề cá và bảo tồn môi trường ở vùng biển tranh chấp để cứu vãn tài nguyên sắp cạn kiệt; tránh các hành động phá hủy môi trường biển nào như nạo vét, cải tạo đảo, hay xây dựng các cơ sở trên các rạn san hô chưa có nước nào kiểm soát.
Thứ ba, ASEAN và Trung Quốc cần thúc đẩy sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) với những quy định mang tính ràng buộc và có những điều khoản về việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Biển Đông.
Cuối cùng, UNCLOS đã có các điều khoản quy định rất rõ, rất cụ thể về việc bảo vệ môi trường sinh thái, các nước thành viên, đặc biệt là Trung Quốc cũng đã ký kết và tham gia UNCLOS cần tuân thủ nghiêm.