Friday, November 29, 2024
Trang chủBiển nóngHai năm sau phán quyết, tình hình Biển Đông đã ổn định?

Hai năm sau phán quyết, tình hình Biển Đông đã ổn định?

Ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài Liên hợp quốc theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 ra phán quyết quan trọng, mang tính lịch sử liên quan vụ kiện Trung Quốc của Philippines về Biển Đông. Sau đúng hai năm, diễn biến tình hình Biển Đông vẫn tiếp tục căng thẳng và Trung Quốc không tuân thủ theo phán quyết của Tòa Trọng tài.

Một số điểm chính của Phán quyết: (1) Quyền lịch sử và “đường 9 đoạn”: Toà Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc không có quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước. Ngoài ra, dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử chỉ có một mình Trung Quốc thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong “đường 9 đoạn”. (2) Quy chế của các cấu trúc: Toà nhận thấy rằng một số bãi do Trung Quốc yêu sách đã bị làm biến đổi mạnh mẽ do việc bồi đắp, xây dựng phi pháp của Trung Quốc; những thực thế Trung Quốc chiếm đóng (phi pháp) không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa; không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng và các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất.(3)Tính hợp pháp của các hoạt động của Trung Quốc: Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này bằng việc (a) can thiệp vào hoạt động đánh cá và thăm dò dầu khí của Philippines, (b) xây dựng đảo nhân tạo và (c) không ngăn chặn ngư dân Trung Quốc đánh bắt ở khu vực này; Tòa cũng khẳng định rằng các tàu chấp pháp của Trung Quốc gây ra một rủi ro va chạm nghiêm trọng một cách bất hợp pháp khi họ đã trực tiếp cản trở các tàu của Philippines. (4) Gây hại cho môi trường biển: Toà nhận thấy rằng Trung Quốc đã gây hại nghiêm trọng với môi trường của các rặng san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo tồn và bảo vệ các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sống của các loài đang suy yếu, bị đe doạ và bị huỷ diệt. (5) Làm trầm trọng thêm tranh chấp: Toà nhận thấy rằng việc bồi đắp và xây dựng đảo nhân tạo trên quy mô lớn của Trung Quốc gần đây là không phù hợp với nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước trong quá trình giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại không thể sửa chữa được với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, và phá huỷ các bằng chứng về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông mà là một phần của tranh chấp giữa các Bên.

Phán quyết của Tòa đã bị Trung Quốc xem thường và không thực thi

Trong hai năm qua, lập trường, quan điểm, yêu sách và các hành động của Trung Quốc vẫn bộc lộ rõ những âm mưu độc chiếm Biển Đông. Bắc Kinh vẫn tiến hành các hoạt động bồi đắp, xây dựng và quân sự hóa trên 7 đá mà nước này đang chiếm đóng trái phép trên quần đảo Trường Sa (của Việt Nam), gồm: đá Gaven, đá Tư nghĩa, đá Gạc Ma, đá Châu Viên, đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành khăn. Trung Quốc vẫn ngang nhiên áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông, trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc đến khu vực biển nằm giữa tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Đông, bao gồm cả khu vực vịnh Bắc Bộ, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và bãi cạn Scarborough; tiến hành ngăn chặn, bắt giữ, xua đuổi (phi pháp) ngư dân Việt Nam cũng như ngư dân các nước đánh bắt hải sản hợp pháp ở Biển Đông. Ngoài ra, Trung Quốc cũng tích cực thúc đẩy các dự án thăm dò, khảo sát và tìm cách khai thác trái phép các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước ven Biển Đông…

Nhìn chung, Trung Quốc đang triển khai đồng bộ các hoạt động phi pháp trên Biển Đông theo những hướng sau: (1) Mở rộng các hoạt động xây dựng trên các đá, bãi cạn ở quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa, nhằm tăng cường khả năng kiểm soát Biển Đông một cách tổng thể. (2) Lợi dụng những bước đột phá về mặt khoa học kỹ thuật, Bắc Kinh triển khai hàng loạt những dự án để tăng cường giám sát, khai thác kinh tế và hỗ trợ lực lượng quân đội đang đồn trú phi pháp trong khu vực như xây dựng các nhà máy hạt nhân trên các đảo nổi, thành lập một mạng lưới giám sát đối với các tàu hàng hải, phát triển công nghệ mới để tìm và có thể khai thác “băng cháy”. (3) Trung Quốc đã triển khai một chiến dịch tuyên truyền rộng rãi để ngăn cản việc thực hiện phán quyết trọng tài. Các biện pháp mà Trung Quốc đã thực hiện là rất khác nhau, bao gồm việc ban hành chính sách “bốn không”, thông qua các luật và quy định mới như sửa đổi Luật An toàn giao thông hàng hải năm 1984 và củng cố các tuyên bố thông qua học thuyết “Tứ Sa”. (4) Trung Quốc thúc đẩy hợp tác thương mại, kinh tế, viện trợ không hoàn lại… nhằm cải thiện quan hệ và gia tăng ảnh hưởng đối với các nước ASEAN, từ đó Bắc Kinh tìm cách chia rẽ đoàn kết trong ASEAN về vấn đề Biển Đông. (5) Bắc Kinh đang cố gắng sử dụng các cuộc đàm phán của COC để ngăn chặn các nước bên ngoài khu vực tìm cách can thiệp, tăng cường hiện diện ở Biển Đông. (6) Đáng chú ý, gần đây Trung Quốc tiến hành cải cách, cơ cấu lại các lực lượng chấp pháp trên biển để tạo tiền đề pháp lý gia tăng các hoạt động trấn áp (phi pháp) và khẳng định “chủ quyền” trên Biển Đông. Vừa qua, Trung Quốc đã chính thức vũ trang hóa lực lượng Cảnh sát biển bằng cách đặt lực lượng này dưới sự chỉ huy trực tiếp của Quân ủy Trung ương Trung Quốc và trang bị súng cho các tàu chấp pháp.

Sau hai năm, tình hình căng thẳng ở Biển Đông vẫn tiếp diễn, ô nhiễm môi trường biển ngày càng trầm trọng

Về an ninh hàng hải: Cùng với tần suất các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên thực địa đang ngày càng gia tăng, nhất là việc Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động tập trận bắn đạn thật trên Biển Đông, triển khai vũ khí sát thương trên các thực thể nhân tạo ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã đe dọa nghiêm trọng đến an ninh và tự do hàng hải trong khu vựu.

Về vấn đề môi trường sinh thái: Hoạt động cải tạo phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông đã gây ra những hậu quả thảm khốc đối với môi trường sinh thái. Theo tính toán của các chuyên gia, Bắc Kinh xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa và Hoàng Sa đã tàn phá tới 160km2 rạn san hô và phá hủy gần 60km2 san hô vòng ở các khu vực xung quanh. Ông John McManus, Đại học Miami nhận định khoảng 10% diện tích san hô tại quần đảo Trường Sa và 8% diện tích san hô ở Hoàng Sa đã bị xóa sổ hoàn toàn do hoạt động của Trung Quốc gây ra. Bên cạnh đó, hoạt động khai thác hải sản ồ ạt, bất hợp pháp, mang tính hủy diệt của ngư dân Trung Quốc ở các cùng chồng lấn trong khu vực Biển Đông đã gây ra suy giảm hệ sinh thái biển và nguy cơ tuyệt chủng nhiều loài sinh vật. Theo tài liệu của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington D.C. (Mỹ) công bố tháng 9/2017, tổng lượng cá ở Biển Đông đã suy giảm khoảng 70-95% kể từ những năm 1950 và tỷ lệ đánh bắt đã giảm 66-75% trong 20 năm qua; hiện ở Biển Đông có thể chỉ còn 5% lượng cá so với thập niên 1950 và quá trình phục hồi các nguồn cá ở Biển Đông hiện nay rất thấp.

Ngoài ra, cùng với việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo và đưa lượng lớn binh lính ra đồn trú phi pháp ở Biển Đông cũng gián tiếp tác động, phá hủy môi trường sinh thái. Theo đánh giá của các chuyên gia, trong quá trình Trung Quốc đưa quân ra đồn trú, sinh hoạt đã thải các kim loại nặng, chất ô nhiễm hữu cơ bền (POPs) và nước thải có thể chứa các kim loại nặng hoặc chất ô nhiễm hữu cơ bền trực tiếp ra biển mà không được xử lý gây những tác động rất nghiêm trọng tới môi trường và các hệ sinh thái biển. Không những vậy, việc xây dựng các công trình phi pháp ở Trường Sa và Hoàng Sa của Trung Quốc cũng làm thay đổi trường sóng và dòng chảy tại các khu vực biển gần bờ, tác động xấu tới hệ sinh thái biển cũng như làm thay đổi điều kiện đáy biển và cán cân bùn cát, trực tiếp phá hủy hệ sinh thái biển.

Việc Trung Quốc không tuân thủ phán quyết, tiếp tục có các hành động đơn phương đe dọa hòa bình, ổn định ở Biển Đông đã vấp phải sự chỉ trích, lên án của cộng đồng quốc tế

Mỹ thường xuyên đưa ra các tuyên bố chính thức (Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng…) phản đối các hoạt động phi pháp của Trung Quốc; triển khai nhiều kế hoạch tuần tra đảm bảo tự do hàng hải, hàng không trong khu vực; cử tàu sân bay, tàu chiến, máy bay trinh sát, máy bay ném bom B-52 áp sát khu vực 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Trường Sa và một số đảo, đá ở Hoàng Sa; tăng cường phối hợp với các nước trong khu vực tiến hành tập trận, giao lưu hải quân nhằm nâng cao năng lực tác chiến, khả năng sẵn sàng chiến đấu, ứng phó với những tình huống bất ngờ có thể xảy ra trên biển; tích cực triển khai chính sách viện trợ kinh tế, vũ khí (tàu chiến, máy bay, súng…) cho một số nước trong khu vực, như Philippines, Indonesia, Singapore, Việt Nam, Malaysia…, nhằm hỗ trợ những nước này nâng cao năng lực tuần tra, giám sát và bảo vệ hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông. Ngoài ra, các cơ quan luật pháp của Mỹ đã đưa ra nhiều dự luật kêu gọi trừng phạt những hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Hai Thượng nghị sĩ Mỹ Marco Rubio và Ben Cardin (3/2017) đã đưa ra Dự luật Trừng phạt nhằm vào các cá nhân, tổ chức Trung Quốc do tham gia các hoạt động phi pháp ở khu vực Biển Đông và Biển Hoa Đông. Trước đó, ông Rubio (12/2016) cũng từng đề xuất Dự luật “Hành động trừng phạt Biển Đông và Biển Hoa Đông 2016”, đề nghị trừng phạt các cá nhân và tổ chức của Trung Quốc khi cho rằng hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông là phạm pháp, đe dọa an ninh khu vực và hoạt động thương mại của Mỹ.

Trong khi đó, các nước đồng minh của Mỹ (Anh, Pháp, Nhật Bản, Australia…) đều đưa ra những tuyên bố, hành động thể hiện sự đồng thuận và ủng hộ chính sách của Mỹ liên quan vấn đề Biển Đông, nhất là hoạt động tuần tra, đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông và thách thức yêu sách “chủ quyền” phi pháp của Trung Quốc. Một số nước trong khu vực cũng tăng cường sức mạnh quân sự, đặc biệt là đầu tư cho hải quân để nâng cao năng lực phòng thủ và ngăn chặn các hoạt động phi pháp của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Nhìn chung, hai năm sau phán quyết của Tòa Trọng tài, diễn biến tình hình Biển Đông vẫn tiếp tục căng thẳng. Những nội dung mang tính lịch sử của phán quyết đã không được Trung Quốc, một trong năm nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tuân thủ. Bắc Kinh vẫn dựa trên sức mạnh quân sự và kinh tế để chèn ép, bắt nạn những nước nhỏ trong khu vực, tìm cách củng cố “chủ quyền” ở Biển Đông, bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế và đi ngược lại luật pháp quốc tế.

RELATED ARTICLES

Tin mới