Ngoài việc có vị trí địa chiến lược quan trọng, Biển Đông còn có nguồn trữ lượng dầu mỏ và khí đốt lớn. Theo Cục Quản lý thông tin năng lượng Mỹ (EIA) dự đoán Biển Đông nắm giữ trữ lượng khoảng 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí đã được chứng minh và ở dạng tiềm năng. Trong khi đó, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) từng ước tính khu vực này nắm giữ khoảng 125 tỷ thùng dầu và 500 nghìn tỷ m3 khí tự nhiên. Chính vì vậy, từ nhiều năm nay, Trung Quốc đã đưa ra mục tiêu chiến lược tìm cách độc chiếm nguồn tài nguyên dầu mỏ, khí đốt ở Biển Đông. Cho đến nay, Trung Quốc đã khai thác dầu tại nhiều khu vực ven bờ với diện tích tổng diện tích khoảng 160.000 km² tại Biển Đông, vùng biển có diện tích hơn 3 triệu km². Với sự phát triển của các phương tiện công nghệ cho phép khoan dầu tại biển sâu và áp lực của nền kinh tế khát năng lượng, Trung Quốc đang có kế hoạch phát triển các giàn khoan ngoài khơi xa.
9 lô dầu khí nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà Trung Quốc mời thầu trái phép
Cơ cấu quản lý ngành dầu khí của Trung Quốc:
Ủy ban cải cách và Phát triển quốc gia (NDRC) là cơ quan quản lý và hoạch định chính sách chủ yếu trong lĩnh vực năng lượng. Chính phủ Trung Quốc cũng thành lập Tổng cục Năng lượng Quốc gia (NEA) đóng vai trò là cơ quan quản lý năng lượng chủ chốt. NEA liên kết với NDRC có trách nhiệm phê duyệt các dự án năng lượng mới tại Trung Quốc, thiết lập giá năng lượng bán buôn trong nước và triển khai các chính sách năng lượng của chính quyền trung ương. Trong tháng 1/2010, chính phủ đã thành lập Ủy ban năng lượng quốc gia với mục đích củng cố chính sách năng lượng giữa các cơ quan khác nhau trực thuộc Hội đồng Nhà nước.
Hệ thống các công ty dầu mỏ Trung Quốc: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) và Tổng Công ty Dầu khí và Hóa chất Trung Quốc (Sinopec) điều hành hàng loạt các công ty con ở địa phương và cùng nhau thống trị thị trường dầu mỏ thượng nguồn và hạ nguồn của Trung Quốc. CNPC đứng đầu về thượng nguồn ở Trung Quốc cùng với công ty con là PetroChina chiếm khoảng 60% tổng lượng dầu và 80% sản lượng khí đốt ở Trung Quốc. Sinopec tập trung vào các hoạt động hạ nguồn như lọc dầu và phân phối chiếm gần 80% doanh thu của công ty trong những năm gần đây. CNOOC chịu trách nhiệm thăm dò và khai thác dầu khí ngoài khơi.
Chiến lược thăm dò, khai thác dầu khí của Trung Quốc
Cơ quan năng lượng quốc gia Trung Quốc cho biết, trong kế hoạch 5 năm giai đoạn 2011 – 2015, Biển Đông sẽ là khu vực chính trong các vùng mà Trung Quốc dự tính đẩy mạnh việc thăm dò và khai thác khí đốt ở ngoài khơi. Mục tiêu của Bắc Kinh là vào năm 2015, tổng sản lượng khai thác khí đốt sẽ lên đến 176 tỷ m3.
Theo Bộ Đất đai và Tài nguyên Trung Quốc (MLR), đầu tư khai thác dầu khí của nước này trong giai đoạn 2012-2016 đã tăng 12,6% so với giai đoạn 2007-2011. Sản lượng dầu thô của Trung Quốc đạt 181,21 triệu tấn trong 11 tháng đầu năm 2016, trong khi sản lượng khí đốt tự nhiên đạt 121,1 tỷ m3.Tuy nhiên, Trung Quốc hiện vẫn là quốc gia nhập khẩu dầu thô lớn. Viện Nghiên cứu Công nghệ và Kinh tế thuộc Tập đoàn Dầu mỏ Trung Quốc (CNPC) ước tính sự phụ thuộc của Trung Quốc vào nhập khẩu dầu mỏ đã vượt quá 65% trong năm 2016.
Theo bản kế hoạch 5 năm do Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia Trung Quốc (NDRC) và Cục Năng lượng Quốc gia Trung Quốc (NEA) công bố hồi tháng 1/2017, Trung Quốc sẽ triển khai các dự án khai thác các mỏ khí đốt tự nhiên tại thung lũng Thẩm Thúy, thung lũng Ordos và Thúy Hưng (Qúy Châu); khẩn trương triển khai các dự án thăm dò khai thác dầu khí tại các khu vực Trường Ninh và Ngụy Viễn (Tứ Xuân), Phù Lăng (Trùng Khánh), Chiêu Thông (Vân Nam), Diên An (Thiểm Tây) và Đồng Nhân (Quý Châu), đồng thời xúc tiến triển khai các dự án khai thác dầu thô, khí thiên nhiên và băng phiến trên các vùng biển của Trung Quốc.Trung Quốc đặt mục tiêu tăng sản lượng dầu thô trong nước lên 200 triệu tấn vào trước năm 2020, trong khi năng lực cung cấp khí đốt tự nhiên sẽ vượt 360 tỷ m3. Trong khi đó, CNOOC cũng lên kế hoạch đầu tư 200 tỷ nhân dân tệ (hơn 32 tỷ USD) và khoan 800 giếng dầu tại Biển Đông, nhằm thực hiện mục tiêu đạt 500 triệu tấn dầu đến năm 2020.
Đến năm 2020, Bắc Kinh sẽ từng bước nâng cao sản lượng dầu khí quốc nội, tăng cường thăm dò khai thác dầu khí khu vực biển và cận biển, khai thác dầu khí vùng biển sâu, tự lực chế tạo thiết bị, nâng cao sản lượng dầu khí ngoài khơi.Theo đó, Trung Quốc tiếp tục khai thác dầu khí trên đất liền và ngoài biển, củng cố giếng dầu cũ, khai thác giếng dầu mới, đặc biệt là giếng dầu ngoài khơi. Ngoài ra, nhằm đẩy mạnh khai thác dầu khí ngoài khơi, chính quyền Trung Quốc sẽ áp dụng các biện pháp tự khai thác và hợp tác với nước ngoài.
Một số thành tựu nghiên cứu, chế tạo giàn khoan dầu khí của Trung Quốc:
Để đạt được mục tiêu chiến lược đề ra, Trung Quốc đã tích cực đầu tư, nghiên cứu, chế tạo các loại hình giàn khoan dầu khí hiện đại. Tính đến thời điểm hiện tại, Bắc Kinh đang là một trong những nước có giàn khoan dầu hiện đại nhất trên thế giới, có khả năng tác nghiệp trong môi trường khắc nghiệt, bao gồm: (1) Giàn khoan Hải Dương 981 là loại giàn khoan nửa chìm nửa nổi, có chiều dài 114 m, chiều rộng 89 m và chiều cao 117 m, nặng 31.000 tấn. Độ sâu hoạt động tối đa là 3.000 m và độ khoan sâu tối đa là 10.000 m. Tập đoàn đóng tàu quốc gia Trung Quốc là đơn vị xây dựng giàn khoan trên với tổng kinh phí gần một tỷ USD trong thời gian 3 năm.(2) Giàn khoan Hải Dương 982, là giàn khoan nửa nổi nửa chìm thế hệ thứ 6, được Trung Quốc mệnh danh là “đảo nhân tạo trên biển”. Hải Dương 982 có khu boong làm việc rộng 1.524 m2, sức chứa 180 người, tải trọng 5.000 tấn, trang bị hệ thống định vị động lực tự động thế hệ 3 (DP3). Hệ thống này được điều khiển bằng máy tính, tính toán các tham số về gió, sóng biển, thủy triều để tự động duy trì vị trí của giàn khoan trên biển bằng cách điều chỉnh cánh quạt và động cơ đẩy.Giàn khoan dài 104,5 m, rộng 70,5 m, khoan sâu tối đa 9.144 m, có thể hoạt động thăm dò dầu khí và khí đốt trong vùng biển sâu 1.500m. Nó được thiết kế nhằm chịu đựng mọi cơn bão khắc nghiệt ở Biển Đông. (3) Giàn khoan Hưng Vượng tải trọng 5.000 tấn, có khả năng tác nghiệp ở mức nước sâu nhất lên tới 1.500 m và độ sâu của giếng khoan là 7.600 m, sức chứa 130 người và nó có thể tác nghiệp ở các địa hình khác nhau, trừ vùng băng giá.
Một số hoạt động phi pháp tiêu biểu của Trung Quốc:
Trong 10 năm trở lại đây, Trung Quốc đã tích cực triển khai nhiều hoạt động phi pháp liên quan lĩnh vực dầu khí trong khu vực Biển Đông, cụ thể:
CNOOC (5/2011) đã kêu gọi các công ty nước ngoài tham gia liên doanh để khai thác dầu khí tại 19 khu vực ngoài khơi Trung Quốc, kể cả tại vùng có tranh chấp với Việt Nam (65/24).
CNOOC (6/2012) đã mời các công ty nước ngoài đấu thầu trái phép 9 lô dầu khí nằm sâu trong thềm lục địa của Việt Nam, chồng lên các lô từ 128 đến 132 và từ 145 đến 156 mà Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) đã và đang tiến hành các hoạt động dầu khí lâu nay. Bản đồ công bố trên mạng của CNOOC cho thấy 9 lô dầu khí mà Trung Quốc mời thầu thăm dò, khai thác nằm ở vùng biển có độ sâu 300 – 4.000 m; chúng đều nằm trong vùng biển thuộc “đường lưỡi bò” của Trung Quốc. Các lô mà Trung Quốc mời thầu nằm trên khu vực rộng hơn 160.000 km2. Vùng biển Trung Quốc gọi thầu chỉ cách bờ biển Quảng Ngãi 76 hải lý (hơn 140 km), cách phía Bắc Nha Trang 60 hải lý (hơn 105 km) và cách đảo Phú Quý 30 hải lý (55 km).
CNOOC (8/2012) lại mời thầu thăm dò, khai thác 22 lôdầu khí ở Biển Đông . Trong đó, lô mang số hiệu 65/12 chỉ cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 50 km và rất gần lô 65/24 của Việt Nam.
Tháng 5/2014, Trung Quốc di chuyển giàn khoan Hải Dương 981 từ đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa tiến sâu vào thềm lục địa Việt Nam. Giàn khoan được hạ đặt sâu trong vùng 200 hải lý thuộc đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cách bờ biển Việt Nam 130 hải lý. Hành động này của Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được Công ước về luật biển của Liên Hợp Quốc 1982 ghi nhận và được cụ thể hóa trong Luật Biển Việt Nam 2012.
CNOOC (25/2/2016) thông cáo mời thầu 18 lô dầu khí với tổng diện tích khoảng 52.257 km2, bao gồm 14 lô ở Biển Đông, 3 lô tại biển Bột Hải, 1 lô tại Biển Hoa Đông. Đối tượng mời thầu bao gồm các công ty tư nhân và tập đoàn nước ngoài, cùng tham gia thăm dò khai thác dầu khí dưới sự điều hành của CNOOC. Được biết, trong các lô dầu khí ở Biển Đông năm 2016 này có một số lô nằm gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Theo thống kê của Wall Street Journal, trong vài năm gần đây CNOOC đã mời thầu hàng chục lô dầu khí nhưng ít công ty nước ngoài nào tỏ ra có hứng thú. Từ năm 2005 đến nay mới có 5 lô do các công ty nước ngoài nhận thầu, gồm Husky Energy Inc. (HSE.T) của Canada, BG Group PLC (BG.LN) của Anh, Devon Energy Corp. (DVN) của Mỹ và Eni SpA (E) của Ý. Thế nhưng, kết quả thăm dò đều đáng thất vọng.
Để đạt được mục tiêu đề ra, Trung Quốc đã sử dụng nhiều thủ đoạn nguy hiểm, khó lường nhằm ngăn cản (phi pháp) các nước thăm dò, khai thác dầu khí hợp pháp ở Biển Đông
Đầu tiên, Trung Quốc tăng cường thăm dò dầu khí ở Biển Đông, bao gồm cả những khu vực tranh chấp mà một số quốc gia ASEAN tuyên bố chủ quyền, trong đó có Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.
Thứ hai, Bắc Kinh sử dụng sức mạnh kinh tế, quân sự, ngoại giao… để ngăn chặn các nước khai thác dầu khí ở Biển Đông. Trung Quốc (7/2014) chỉ trích việc Bộ Năng lượng Philippines đã gia hạn thêm một năm cho Forum Energy, một công ty dầu khí của Anh, tiến hành các hoạt động dầu khí ở khu vực Bãi Cỏ Rong (tên quốc tế là Reed Bank) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc và Philippines cũng tuyên bố chủ quyền với bãi đá này.Trong khi đó, Bắc Kinh cũng dùng ảnh hưởng và sức mạnh của mình để gây sức ép khiếnPetroVietnam buộc phải dừng khoan thăm dò với các đối tác nước ngoài ở các lô 07.03 và 136.03 hồi tháng 3/2018 và 7/2017. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nhiều lần ngang ngược tuyên bố: “Không có sự cho phép của Trung Quốc, việc khai thác dầu khí của bất kỳ công ty nước ngoài nào trong vùng biển dưới quyền thực thi pháp lý của Trung Quốc là phi pháp và không có giá trị”; tiếp tục nhắc lại lập luận ngang ngược rằng Trung Quốc “có chủ quyền không tranh cãi” đối với quần đảo Trường Sa của Việt Nam và các vùng biển lân cận.
Thứ ba, Chính phủ Trung Quốc thực hiện nhiều chủ trương, chính sách ủng hộ đối với các hoạt động phi pháp của doanh nghiệp Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông, nhưhỗ trợ trên các phương tiện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, đưa ra chính sách ưu đãi khác thác như vốn đăng ký, thu thuế, thuế quan và tài chính,thiết lập quỹ khai thác rủi ro Biển Đông, đưa ra các chính sách phát triển ngành nghề hỗ trợ cần thiết để đẩy nhanh việc khai thác phi pháp ở Biển Đông.
Cộng đồng quốc tế đều bất bình và có các biện pháp phản ứng lại hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông
Liên quan vụ giàn khoan Hải Dương 981: (1) Mỹ là quốc gia đầu tiên và liên tục bày tỏ “quan ngại nghiêm trọng” về tình hình Biển Đông ở nhiều cấp. Tổng thống Barack Obama cảnh báo rằng sự gây hấn mang tính khu vực như đã xảy ra ở Biển Đông hay bất kỳ khu vực nào trên thế giới có thể khiến quân đội Mỹ phải vào cuộc. Thượng viện Mỹ thông qua nghị quyết về Biển Đông, yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 và lực lượng hàng hải liên quan, kiềm chế các hoạt động hàng hải trái với Quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va trên biển, và trả vùng biển Hoàng Sa về nguyên trạng. Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố việc Trung Quốc di dời giàn khoan ở Biển Đông là một bước đi “khiêu khích” và cho biết đang theo dõi sát tình hình. (2) Liên minh châu Âu (EU) bày tỏ lo ngại về an ninh khu vực Biển Đông sau khi Trung Quốc triển khai giàn khoan trong khu vực thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam. EU thúc giục các bên liên quan tìm kiếm các giải pháp hòa bình, hợp tác phù hợp với luật pháp quốc tế, tiếp tục đảm bảo an toàn và tự do hàng hải. (3) Lần đầu tiên sau gần 20 năm, ASEAN ra tuyên bố riêng về Biển Đông. Các ngoại trưởng bày tỏ lo ngại sâu sắc về những vụ việc do Trung Quốc gây ra có thể đe dọa hòa bình, an ninh và an toàn hàng hải, kêu gọi các bên không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. (4) Nhóm các quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới G7 bày tỏ lo ngại về tình hình căng thẳng hiện tại trên Biển Đông, đồng thời kêu gọi các bên liên quan giải quyết tranh chấp theo luật pháp quốc tế. G7 “phản đối nỗ lực đơn phương của bất kỳ bên nào muốn sử dụng biện pháp đe dọa, ép buộc hay vũ lực để khẳng định tuyên bố chủ quyền hoặc hàng hải”. (5) Hạ viện Nhật Bản thông qua nghị quyết lên án việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam làm trầm trọng thêm căng thẳng khu vực. Nhật Bản tuyên bố sẽ không tha thứ cho hành động đơn phương nhằm chiếm đoạt lãnh thổ và lợi ích hàng hải thông qua phô diễn vũ lực của Trung Quốc. (6) Các quốc gia khác như Singapore, Philippines, Indonesia, Anh, Italy… và các chuyên gia, tổ chức quốc tế, cũng liên tiếp phản ứng trước hành động của Trung Quốc và ủng hộ Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông suốt hai tháng qua.
Liên quan việc Trung Quốc mời thầu dầu khí trong vùng biển của Việt Nam: Thượng nghị sỹ Mỹ Joe Liberman cho rằng đây là tuyên bố vô căn cứ và chưa hề có tiền lệ.Ông khẳng định các lô dầu khí này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được luật pháp quốc tế thừa nhận.Trong khi đó, giới chuyên gia, học giả quốc tế cho rằng hành động này của Trung Quốc là nhằm tìm cách khẳng định “chủ quyền” ở Biển Đông; đồng thời nhấn mạnh hành động của Bắc Kinh khiến tình hình khu vực trở nên căng thẳng.
Kết luận:
Để đáp ứng nguồn cung năng lượng phục vụ phát triển kinh tế trong nước, Trung Quốc sẽ bất chấp các thủ đoạn, dù là phi pháp và bị cộng đồng quốc tế phản đối, để khai thác nguồn dầu khí ở Biển Đông.
Hiện nay, với ưu thế vượt trội về trình độ khoa học kỹ thuật, Bắc Kinh sẽ mở rộng việc thăm dò phi pháp ở những khu vực biển xa, vùng biển sâu, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác. Hành động này của Trung Quốc là để ăn cắp nguồn tài nguyền của các nước. Trong khi đó, Trung Quốc chủ trương hạn chế khai thác dầu khí ở các vùng biển nông, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, coi đầy là nguồn dầu khí dự trữ chiến lược, chỉ được khai thác khi đã lấy hết dầu khí của các nước khác ngoài Biển Đông.