Bộ Quốc phòng Mỹ (16/8) công bố Báo cáo thường niên mang tên “Phát triển quân sự và an ninh liên quan đến Trung Quốc”, trong đó cho biết “Trung Quốc dự định đưa các nhà máy điện hạt nhân nổi tới cung cấp điện cho các đảo nhân tạo ở Biển Đông. Hoạt động này được cho là sẽ bắt đầu trước năm 2020”. Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết, Bắc Kinh đã hoàn thành cơ sở hạ tầng trên bộ ở 4 tiền đồn chiếm đóng phi pháp thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, gồm đá Gạc Ma, đá Ken Nan, đá Ga Ven và đá Châu Viên. Sau khi Trung Quốc tuyên bố đã ngừng hoạt động bồi lấp và cải tạo trái phép (làm tăng thêm 12.94 km2 diện tích trên 7 thực thể chiếm đóng phi pháp ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam), Bộ quốc phòng Mỹ cho biết Bắc Kinh có thể đặt trạm hạt nhân để cấp năng lượng cho các thực thể này.
Mô hình trạm năng lượng hạt nhân nổi trên biển do Tập đoàn Hạt nhân Quốc gia Trung Quốc (CNNC) thiết kế.
Trước đó, Tạp chí Chứng khoán Trung Quốc đưa tin cho rằng Bắc Kinh có thể xây dựng 20 nhà máy điện hạt nhân nổi để gọi là “thúc đẩy phát triển thương mại” trên Biển Đông. Báo South China Morning Post năm ngoái cũng tường thuật rằng một số công ty nhà nước Trung Quốc đã thành lập một liên doanh nhằm nâng cao năng lực điện hạt nhân của Trung Quốc cho phù hợp với tham vọng của nước này muốn trở thành một “cường quốc biển”.
Trung Quốc đang thúc đẩy nghiên cứu, chế tạo nhà máy điện hạt nhân nổi trên biển
Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc gia Trung Quốc và Tập đoàn năng lượng nguyên tử Nga (5/2014) đã ký thỏa thuận về việc hợp tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân nổi trên biển. Đến cuối tháng 7/2014, Tập đoàn Hạt nhân quốc gia Trung Quốc (CNNC) quyết định ký Ý định thư về việc hợp tác phát triển các nhà máy điện hạt nhân nổi với Công ty Rusatom Overseas của Nga. Cũng trong năm 2014, Cục năng lượng quốc gia Trung Quốc thành lập Trung tâm nghiên cứu kỹ thuật năng lượng hạt nhân để tập trung nghiên cứu chuyên sâu về trạm điện hạt nhân trên biển. Đồng thời, Bộ Khoa học kỹ thuật quốc gia Trung Quốc cũng thành lập “Hạng mục 863” nhằm nghiên cứu tính an toàn và kỹ thuật liên quan tàu động lực hạt nhân và hạng mục nắm bắt kỹ thuật “mô phạm ứng dụng và kỹ thuật sử dụng lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ để phát điện”. Tại triển lãm “Phát triển thành quả ứng dụng công nghệ kỹ thuật khoa học quốc phòng quân dụng và dân dụng”, Trung Quốc lần đầu tiên trưng bày mô hình điện hạt nhân trên biển do Bắc Kinh tự nghiên cứu. Tại lần triển lãm này, Trung Quốc đã giới thiệu lò phản ứng cỡ nhỏ ACP100 do Tập đoàn Hạt nhân Trung Quốc tự nghiên cứu. Đến tháng 5/2015, Viện 719 thông báo đã thử nghiệm thành công phương án tàu trở lò phản ứng hạt nhân trên biển tại bể thử nghiệm của Đại học Công nghiệp Đại Liên và Phòng thử nghiệm công trình gần bờ trọng điểm quốc gia. Đến năm 2016 Trung Quốc hoàn thành thiết kế ban đầu và bắt đầu thi công công trình nhà máy điện hạt nhân nổi ACP100S. Tháng 8/2017, Công ty Điện hạt nhân quốc gia Trung Quốc thông báo góp vốn cùng Tập đoàn Quốc Thịnh Thượng Hải, Tập đoàn Đóng tàu Giang Nam, Công ty Điện khí Thượng Hải và Công ty Điện Triết năng Triết Giang thành lập “Công ty TNHH phát triển năng lượng hạt nhân trên biển”. Công ty trên có vốn điều lệ vào 1 tỷ Nhân dân tệ (khoảng 150 triệu USD), hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu, chế tạo, kinh doanh và quản lý trang bị năng lượng hạt nhân biển.
Ý đồ của Trung Quốc trong việc chế tạo nhà máy điện hạt nhân nổi trên biển
Về mặt chính thống, Trung Quốc cho rằng chế tạo nhà máy điện hạt nhân nổi trên biển để cung cấp điện cho các vùng duyên hải, vùng biên giới, vùng đảo xa bờ và các giàn khoan dầu khí gặp khó khăn về nguồn điện năng. Trung Quốc cũng biện minh cho rằng hành động của mình chỉ đơn thuần phục vụ mục đích phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của người dân, cũng như cung cấp điện để khử mặn – lọc nước biển thành nước ngọt, làm đá phục vụ ngư dân ướp hải sản đánh bắt trên biển.
Tuy nhiên, trên thực tế, Trung Quốc tìm mọi cách phát triển điện hạt nhân trên biển nhằm cung ứng điện cho các hoạt động quân sự mà Trung Quốc mới triển khai trên các đảo ở Biển Đông, nhất là điện năng dành cho hệ thống radar tối tân của Bắc Kinh. Patrick Cronin, Giám đôc Chương trình An ninh châu Á – Thái Bình Dương, tại Trung tâm An ninh Mỹ Mới từng nhận định, “các nhà máy điện hạt nhân trên biển sẽ giúp quân đội Trung Quốc có nguồn năng lượng bền vững để thực hiện đầy đủ các hoạt động, từ cảnh báo sớm trên không tới các hệ thống điều khiển vũ khí tấn công và phòng thủ, hay chống ngầm”. Theo nhận định của giới chuyên gia, nếu Trung Quốc triển khai một trạm điện hạt nhân ở đảo Phú Lâm sẽ khiến Bắc Kinh giải quyết được nhu cầu điện cho “thành phố Tam Sa”, tạo điều kiện để nước này có thể triển khai được các loại hình radar, tên lửa hiện đại và nâng cao năng lực tác chiến cho hải quân Trung Quốc. Giáo sư Carlyle Thayer, Học viện Quốc phòng Australia cũng từng cảnh báo sau khi Trung Quốc triển khai các nhà máy điện hạt nhân trên biển, Bắc Kinh sẽ viện cớ thực thi các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn cho những trạm điện trên để tăng cường hiện diện quân sự khiến tình hình khu vực trở nên căng thẳng, mất kiểm soát.
Nhiều nước bày tỏ lo ngại về khả năng Trung Quốc triển khai nhà máy điện hạt nhân trên Biển Đông
Người phát ngôn của Tổng thống Philippines Harry Roque (23/8) đã bày tỏ lo ngại về chương trình hạt nhân của Trung Quốc ở Biển Đông, cho biết Philippines lo ngại về việc đưa bất kỳ loại vũ khí hạt nhân nào vào lãnh thổ của Philippines vì Hiến pháp Philippines đã quy định rõ rằng Philippines là một khu vực phi hạt nhân. Cùng quan điểm trên, Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Trà cho biết, Việt Nam cho rằng duy trì hòa bình ổn định an ninh an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông là lợi ích chung và cũng là nghĩa vụ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy tất cả các bên đều có nghĩa vụ đóng góp cho mục tiêu này.
Trong khi đó, Trung Quốc vẫn tìm cách biện minh cho hành động của mình ở Biển Đông. Bộ Ngoại giao Trung Quốc (18/8) đã bác bỏ báo cáo này của Bộ Quốc phòng Mỹ, cho rằng Washington đang đưa ra những lời bình luận vô trách nhiệm về sự phát triển quốc phòng của Bắc Kinh, khẳng định Trung Quốc vẫn kiên trì theo đuổi con đường phát triển hòa bình và chính sách quốc phòng mang bản chất phòng vệ; ngang ngược cho rằng “mọi hành động của Trung Quốc trên biển Đông “là hợp pháp và không thể tranh cãi”. Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Ngô Khiêm (17/8) ngang nhiên cho rằng Trung Quốc “kiên quyết phản đối báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ về các hoạt động quân sự và an ninh của Trung Quốc”, “cho rằng báo cáo này đã giải thích sai lệch về mục tiêu chiến lược của Trung Quốc và thổi phồng cái gọi là “mối đe dọa quân sự Trung Quốc”. Ngoài ra, ông Ngô Khiêm cũng khẳng định, Trung Quốc, “với tư cách là một nhân tố thúc đẩy hòa bình thế giới, đóng góp cho sự phát triển toàn cầu và duy trì trật tự quốc tế, kiên trì theo đuổi con đường phát triển hòa bình và chính sách quốc phòng mang bản chất phòng vệ”. Đồng thời, ông cũng nhấn mạnh rằng “những nỗ lực của Trung Quốc nhằm đẩy mạnh hiện đại hóa quân sự là nhằm bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển, cũng như bảo vệ hòa bình, ổn định và thịnh vượng; các hoạt động xây dựng hòa bình của Trung Quốc trên các đảo, đá ở Biển Đông là nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, đáp ứng yêu cầu của người dân, hoàn thành tốt hơn những nghĩa vụ quốc tế của mình”. Mặt khác, ông Ngô Khiêm chỉ trích Mỹ “là mối đe dọa thực sự đối với hòa bình và ổn định khu vực” khi “thường xuyên đưa các tàu chiến và máy bay tới Biển Đông dưới danh nghĩa “tự do hàng hải” và “gây căng thẳng”.
Dư luận cho rằng nếu Trung Quốc triển khai nhà máy điện hạt nhân trên Biển Đông sẽ đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định trong khu vực
Khu vực Biển Đông là vùng biển hẹp, diện tích nhỏ, thường hay có bão lớn. Vì vậy, nếu Trung Quốc triển khai trạm điện hạt nhân nổi trên Biển Đông sẽ là cả một thách thức lớn trong việc đảm bảo an toàn cho các trạm điện hạt nhân, cũng như vấn đề rò rì hạt nhân. Tiến sĩ Nguyễn Hữu Huân, Trưởng phòng sinh thái biển, Viện Hải dương học Nha Trang cho biết: “Trên đất liền, nhà máy điện hạt nhân được trang bị một hệ thống đặc biệt an toàn để ngăn chặn rò rỉ phóng xạ trong trường hợp gặp sự cố mà nhiều khi cũng không tránh khỏi. Đối với các nhà máy nổi lênh đênh trên biển, có nhiều rủi ro ngoài khả năng dự báo của con người như: bão, sóng thần, va chạm…thì xác suất xảy ra sự cố sẽ cao hơn”. Không những vậy, việc bảo đảm an toàn cho nhà máy phóng xạ trên biển là rất khó khăn, nhất là trường hợp mất điện. Và khi sự cố xảy ra, việc khắc phục hiện tượng rò rỉ phóng xạ trên biển là điều vô cùng khó so với trên đất liền vì lúc đó không dễ khoanh vùng và hạn chế lan truyền phóng xạ như trên mặt đất.
Trong khi đó, Phó Giáo sư Nguyễn Mộng Sinh, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt nhận định, các lò phản ứng hạt nhận đặt trên phao nổi, tàu phá băng, trên tàu ngầm tiềm ẩn những nguy cơ về ô nhiễm môi trường xung quanh. Dùng nước làm mát thì phải có những biện pháp kỹ thuật để đề phòng việc thất thoát các chất phóng xạ, có thể sinh ra trong quá trình hoạt động của lò phản ứng ra môi trường. Dự án này chắc chắn sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ ô nhiễm môi trường nếu Trung Quốc không có những kiểm soát chặt chẽ. Ngoài ra, công nghệ hạt nhân của Trung Quốc hiện đã có tiến bộ, song vẫn còn hạn chế và chưa đủ trình độ để làm chủ công nghệ điện hạt nhân trên biển. Việc chưa kiểm soát, làm chủ công nghệ mà triển khai chế tạo, hoặc đưa vào sử dụng trạm điện hạt nhân nổi trên biển sẽ đe dọa trực tiếp đến người dân các nước ven biển.
Một số chuyên gia cho rằng nếu Trung Quốc triển khai nhà máy điện hạt nhân trên Biển Đông mà xảy ra sự cố rò rỉ phóng xạ, nó sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến người dân ven biển, hoạt động tự do hàng hải trong khu vực và trực tiếp phá hủy hệ sinh thái ở Biển Đông: (1) Khi bị rõ rỉ hạt nhân, bão và gió ở Biển Đông sẽ rất nhanh chóng tán phát bui hạt nhân vào đất liền, khiến người dân ven Biển Đông sẽ phải đối diện với nguy cơ phơi nhiễm phóng xạ. (2) Môi trường sinh thái ở Biển Đông, đặc biệt là nguồn hải sản và sinh vật biển sẽ bị tàn phá, hủy diệt hàng loạt. (3) Khi bụi phóng xạ bị tán phát trong không khí cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tự do hàng hải, giao thông thương mại trên Biển Đông sẽ bị tê liệt hoàn toàn.