Friday, November 15, 2024
Trang chủBiển nóngNguyên nhân các biện pháp giải quyết tranh chấp chủ quyền ở...

Nguyên nhân các biện pháp giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đều đi vào bế tắc?

Trong nhiều năm nay, tình hình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đang ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường hòa bình, ổn định và xu thế hợp tác trong khu vực. Các nước liên quan tranh chấp và cộng đồng quốc tế đã, đang tìm kiếm một giải pháp thỏa đáng để giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, hầu hết các giải pháp đưa ra đều rơi vào bế tắc.

Theo phán quyết ngày 12/7 của PCA, yêu sách của Trung Quốc về “các quyền lịch sử” đối với các vùng biển nằm trong “đường 9 đoạn” là trái với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).

Mọi biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông đều rơi vào vế tắc:

Thứ nhất, do Biển Đông có nguồn tài nguyên phong phú và vị trí địa chiến lược quan trọng khiến các nước “không thể bỏ qua”. Biển Đông được xác định có trữ lượng dầu mỏ khoảng 1,2 km³ (7,7 tỷ thùng), với ước tính tổng khối lượng là 4.5 km³ (28 tỷ thùng). Trữ lượng khí tự nhiên được ước tính khoảng 7.500 km³, trong đó nhiều nguồn năng lượng mới được tìm thấy ở khu vực này, điển hình là băng cháy (với trữ lượng lớn và được dự báo là nguồn năng lượng của tương lai). Biển Đông cũng chiếm một phần ba toàn bộ đa dạng sinh học biển thế giới, vì vậy nó có vai trò rất quan trọng đối với hệ sinh thái biển. Ngoài ra, Biển Đông là tuyến đường hàng hải huyết mạch, có ý nghĩa chiến lược to lớn trong sự phát triển về mọi mặt của các quốc gia. Biển Đông hiện là đường hàng hải đông đúc thứ hai trên thế giới, trong khi nếu tính theo tổng lượng hàng hoá thương mại chuyển qua hàng năm, hơn 50% đi qua eo biển Malacca, eo biển Sunda và eo biển Lombok. Hơn 1,6 triệu m³ (10 triệu thùng) dầu thô được chuyển qua eo biển Malacca hàng ngày. Mặt khác, Biển Đông cũng là vùng biển có giá trị to lớn về vị trí chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển an ninh – quốc phòng đối với các nước trong khu vực đang có tranh chấp.

Thứ hai, do việc giải thích, áp dụng sai các quy định về luật pháp quốc tế: Điển hình là việc Trung Quốc cố tình bóp méo, viện dẫn sai các quy định của UNCLOS về quy chế đảo, đá, vùng nước lịch sử; liên tục đưa ra các tuyên bố biện minh cho rằng “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi ở Biển Đông” và rằng “Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Đông Sa và các vùng nước phụ cận”; Trung Quốc cũng viện dẫn sai các quy định trong UNCLOS, đặc biệt là quy định các nước ven biển có quyền hoạch định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) trong phạm vi 200 hải lý kể từ đường bờ biển để đưa đường lưỡi bò vào bản đồ quốc gia và hộ chiếu.

Thứ ba, do Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động trên thực địa và có chủ trương vô lý về việc giải quyết tranh chấp. Trung Quốc liên tục có các hoạt động phi pháp nhằm khẳng định chủ quyền ở Biển Đông. Trung Quốc liên tục bắt trái phép ngư dân các nước trong khu vực, phá hoại hoạt động của các tàu thăm dò dầu khí các tàu của trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam; hạ đặt phi pháp giàn khoan Hải dương 981 trong vùng biển của Việt Nam; tiến hành cải tạo, quân sự hóa phi pháp hàng loạt các bãi cạn, đá ở Trường Sa; triển khai các loại vũ khí tấn công ở Hoàng Sa; đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm trên Biển Đông; đẩy mạnh hoạt động phi pháp của các lực lượng quân sự và bán quân sự tại Biển Đông dẫn tới tình hình căng thẳng tại Biển Đông trong thời gian gần đây. Ngoài ra, trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc luôn khăng khăng cho rằng mình có chủ quyền không thể tranh cãi (trên thực tế là dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), chỉ tiến hành đàm phán, hiệp thương hòa bình trực tiếp song phương với bên liên quan đối với tranh chấp ở Trường Sa, khẳng định “Hoàng Sa không tồn tại tranh chấp, thuộc chủ quyền của Trung Quốc” và rằng Trung Quốc không tham gia, không chấp nhận, không tuân thủ bất cứ phán quyết hoặc vụ kiện nào liên quan giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ.

Thứ tư, thiếu thống nhất trong nội bộ ASEAN và DOC không phải là văn kiện pháp lý để giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông giữa Trung Quốc với các nước ASEAN. ASEAN tiếp tục bị chia rẽ về cách ứng xử với Trung Quốc trong tranh chấp ở Biển Đông. Tuy tranh chấp Biển Đông là tranh chấp giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, song tranh chấp này có liên quan trực tiếp đến hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực, trong đó lợi ích của ASEAN là rõ ràng và thiết thực nhất. Tuy nhiên, do Trung Quốc sử dụng sức mạnh kinh tế, quân sự, ngoại giao để lôi kéo, mua chuộc, thậm chí là ép buộc một số nước ASEAN phải nghe theo Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, đưa ra các tuyên bố, hành đồng không phù hợp với lợi ích chung của ASEAN khiến nội bộ mất đoàn kết, cản trở việc đàm phán ký kết COC.

Trên thực tế, DOC là một văn kiện nửa chính trị nửa pháp lý và không có giá trị ràng buộc. Hiệu lực của văn bản này tùy thuộc vào thiện chí thi hành của các bên. Một số quy định của DOC quá chung chung, dẫn đến việc các quốc gia có sự “vận dụng” khác nhau. Quan trọng nhất là quy định về việc các nước tự kiềm chế, không có các hành vi làm phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp hay ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định ở khu vực. Quy định của DOC về triển khai các biện pháp xây dựng lòng tin quá “lỏng lẻo”, chỉ dừng ở mức các bên “tìm kiếm cách thức” xây dựng lòng tin.

Thứ năm, các nước lớn có lợi ích ở Biển Đông chưa thực sự có các hành động cụ thể góp phần giải quyết tranh chấp. Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ… mới chỉ đưa ra các cam kết đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông, hỗ trợ các nước ven Biển Đông tăng cường năng lực quốc phòng, kêu gọi Trung Quốc kiềm chế các hoạt động leo thang căng thẳng và giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình. Những hành động trên là đáng quý, góp phần đảm bảo hòa bình, ổn định và tự do hàng hải của khu vực, song chưa đủ để thúc đẩy Trung Quốc ngồi vào bàn đàm phán đa phương, giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS.

Thứ sáu, bản thân các quy định trong luật quốc tế chưa được hoàn thiện, còn sơ hở. Việc Trung Quốc bảo lưu Điều 298 UNCLOS về ngoại lệ của thủ tục giải quyết tranh chấp và các bên liên quan khác cũng chưa ký điều ước quốc tế có quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại ICJ[1] khiến việc giải quyết tranh chấp chủ quyền, phân định biển, hoạt động quân sự ở Biển Đông đi vào bế tắc. Việt Nam cũng như các nước có tranh chấp hiện khó có thể khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế[2] để yêu cầu giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông. Trong khi đó, các biện pháp phi tài phán khác ngoài đàm phán như thương lượng; môi giới, trung gian, hòa giải; ủy ban điều tra và ủy ban hòa giải quốc tế; trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và biện pháp ngoại giao công chúng cũng là những biện pháp quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp, song chúng chỉ là một trong các biện pháp bổ trợ cho biện pháp đàm phán.

Ngoài ra, còn một số yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông như: Sự thay đổi trong tính toán của một số nước về lợi ích chiến lược của các bên và cán cân sức mạnh giữa các quốc gia; các nước liên quan tranh chấp đều cho rằng mình có chủ quyền không thể tranh cãi và đầy đủ cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền đối với các tranh chấp ở Biển Đông; sự cạnh tranh ảnh hưởng và tập hợp lực lượng giữa các cường quốc.

Để giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, các bên liên quan cần thực hiện tổng hợp nhiều biện pháp

Trước hết, các bên liên quan tranh chấp cần tuân thủ các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS cùng các văn kiện, tuyên bố khác trong quan hệ giữa các quốc gia; tuân thủ nguyên tắc không sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua đàm phán giữa các bên trực tiếp liên quan, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; kiềm chế trong việc thực hiện các hành vi có thể gây phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình ổn định, kể cả việc không đưa người đến ở trên những đảo, đá, bãi ngầm chưa có người ở.

Thứ hai, các bên liên quan cần đẩy mạnh các biện pháp xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa thông qua các hoạt động chung, như: nghiên cứu đại dương, hợp tác nghề cá, bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ trên biển, khắc phục hậu quả thiên tai, phòng, chống cướp biển, chống khủng bố, tuần tra chung, tập trận chung; nghiêm cấm các hành động làm gia tăng xung đột, tranh chấp ở Biển Đông. Ngoài ra, tranh chấp Biển Đông là vấn đề lâu dài, phức tạp, các bên liên quan không chủ quan, nóng vội trong đàm phán phân định biển để có thể tận dụng hết mọi khả năng cũng như cơ hội mà mình có được.

Thứ ba, cần thúc đẩy xây dựng COC: Xây dựng COC là việc làm cấp thiết, đem lại lợi ích không chỉ cho ASEAN và Trung Quốc mà cho tất cả các nước ở trong và ngoài khu vực. Tuy COC không thể là phương tiện để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ hay phân định ranh giới biển ở Biển Đông, nhưng COC sẽ tiếp tục là một công cụ xây dựng lòng tin nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định, tin cậy lẫn nhau và khuyến khích hợp tác sử dụng và quản lý Biển Đông một cách hòa bình, tối ưu trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; các biện pháp thực hiện trong khuôn khổ COC sẽ không gây phương hại đến quá trình giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và vùng biển. Các bên tham gia ký kết COC phải là toàn bộ thành viên của ASEAN và Trung Quốc, có thể xem xét việc tham gia của các quốc gia có lợi ích liên quan và COC phải là văn bản pháp lý tạo khuôn mẫu cho quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong bối cảnh ở Biển Đông đang tồn tại nhiều tranh chấp do lịch sử để lại và nhu cầu sử dụng biển của các quốc gia trong khu vực và quốc tế đang tăng lên; phát huy được vai trò chủ đạo của ASEAN trong vấn đề an ninh trên Biển Đông. Nội dung của COC và việc triển khai thực hiện COC phải tuân thủ nguyên tắc của UNCLOS, Hiệp ước thân thiện và hợp tác giữa các quốc gia Đông Nam Á (TAC), SEANWFZ, 5 nguyên tắc cùng chung sống hòa bình, kế thừa các quy định trong DOC và Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC, các nguyên tắc phổ biến của luật quốc tế đã được thừa nhận; phải thiết lập các nguyên tắc chung về việc không sử dụng bạo lực, tránh đe dọa, ngăn ngừa xung đột, đồng thời giúp giải quyết những va chạm xung quanh việc khai thác và đánh bắt trên biển, đảm bảo an toàn trên biển. Phạm vi áp dụng của COC phải được xác định rõ bao gồm tất cả các đảo và vùng nước bên ngoài ranh giới 200 hải lý tính từ đường cơ sở, lãnh hải của các quốc gia ven biển và các đảo ở Biển Đông. Cần phân định rõ khu vực tranh chấp và không tranh chấp, xác định rõ những hoạt động được phép và không được phép thực hiện tại khu vực tranh chấp; đặc biệt là tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển, quyền tự do và an ninh hàng hải, an ninh hàng không tại Biển Đông phù hợp với quy định của UNCLOS.

Thứ tư, các nước cần có tinh thần thượng tôn pháp luật, cân nhắc lợi ích giữa các bên để có thể đem đến một sự công bằng tương đối cũng như bảo vệ được lợi ích hợp pháp của quốc gia mình; chủ động tiến hành đàm phán song phương nếu là tranh chấp giữa hai nước và đàm phán đa phương nếu là tranh chấp có liên quan đến lợi ích của các bên liên quan; việc đàm phán cần được tiến hành hết sức linh hoạt dựa trên điều kiện thực tế của việc giải quyết tranh chấp, không nên giữ quan điểm cứng nhắc; vận dụng và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn từ việc phân định biển của các nước khác, cần phải nhận rõ những thách thức, nắm bắt đúng thời cơ để vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tại.

Thứ năm, các bên liên quan cần thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao, tăng cường mối quan hệ và hiểu biết lẫn nhau để có thể thông cảm và tạo điều kiện thuận lợi cùng nhau đi đến thống nhất chung; cần thỏa thuận các điều khoản là chế tài ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia ký kết nhằm giúp các điều ước đó thực hiện và có ý nghĩa cũng như giá trị thật sự trên thực tế.

Thứ sáu, Trung Quốc cần từ bỏ chủ trương vô lý và chấm dứt các hoạt động làm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông; thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp quốc tế cũng như các tuyên bố, hiệp định ký kết với các nước liên quan. Trong đó, Trung Quốc phải từ bỏ ngay chủ trương về việc chỉ tiến hành đàm phán song phương trực tiếp với từng nước liên quan; Trung Quốc phải thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam, Trung Quốc đã tiến hành chiếm đóng phi pháp và Trung Quốc phải tiến hành đàm phán với Việt Nam để giải quyết tranh chấp.

Thứ bảy, các nước ASEAN cần đoàn kết, thống nhất trong nội bộ khối trước khi tiến hành đàm phán với Trung Quốc để có lập trường thống nhất, đủ nặng buộc Trung Quốc phải tuân thủ các hiệp định, tuyên bố đã ký kết với ASEAN, trong đó có DOC và TAC; nhanh chóng thúc đẩy việc đàm phán và ký kết COC mang tính ràng buộc pháp lý nhằm góp phần giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.

Thứ tám, các nước lớn có lợi ích ở Biển Đông cần tích cực can thiệp sâu hơn vào tranh chấp Biển Đông, có các biện pháp cụ thể kiềm chế các hoạt động phi pháp của Trung Quốc nhằm làm thay đổi nguyên trạng ở Trường Sa và buộc Trung Quốc phải tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế.

Nhìn chung, để giải quyết được tranh chấp Biển Đông, điểm mấu chốt vẫn là ý chí trí chính trị và quyết tâm của lãnh đạo các nước liên quan, chỉ khi tất cả các nước cùng đồng thuận quan điểm, cách tiếp cận vấn đề thì mới tìm ra được biện pháp giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn và tranh chấp ở Biển Đông. Hiện nay, tất cả các bên liên quan cần nghiêm túc thực thiện các Hiệp định, Thỏa thuận song phương và đa phương đã ký kết, trong đó có UNCLOS và DOC nhằm đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định ở Biển Đông; chấm dứt các hành động thay đổi nguyên trạng, quân sự hóa các đảo, đá, bãi nửa nổi nửa chìm ở Biển Đông. Đặc biệt là Trung Quốc, nước lớn có trách nhiệm trên thế giới và là láng giềng hữu nghị với các nước ASEAN, cần thể hiện vai trò và trách nhiệm của mình, đi tiên phong trong việc tuân thủ luật pháp quốc tế, từ bỏ các yêu sách chủ quyền phi pháp, nghiêm túc thực thi DOC, UNCLOS và giải quyết các tranh chấp lãnh thổ thông qua đàm phán song phương ở Hoàng Sa, đa phương ở Trường Sa hoặc thông qua cơ quan tài phán quốc tế.

RELATED ARTICLES

Tin mới