Friday, October 18, 2024
Trang chủGóc nhìn mớiMỹ cảnh báo siêu khủng hoảng kinh tế thế giới 2020

Mỹ cảnh báo siêu khủng hoảng kinh tế thế giới 2020

Ngân hàng hàng đầu của Mỹ JPMorgan Chase vừa đưa ra dự báo đáng lo ngại về “siêu khủng hoảng thế giới” sẽ nổ ra vào năm 2020.

Vào năm 2020, thế giới sẽ phải đối mặt với những cú sốc kinh tế, mà các chuyên gia của nhà băng hàng đầu Mỹ JPMorganChase gọi là “siêu khủng hoảng”, ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống xã hội và sẽ bao trùm toàn thế giới.

Theo dự báo của họ, thế giới sẽ phải đối mặt những vụ bạo loạn hàng loạt và tình trạng gián đoạn cung cấp lương thực. Họ dựa vào cơ sở nào để đưa ra một dự báo ảm đạm như thế? Xác suất dự báo thành hiện thực như thế nào? Hãng thông tấn Nga Sputnik đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia và đưa ra bài bình luận về dự báo này.

Siêu khủng hoảng tiếp diễn theo quy luật “tròn 1 thập kỷ”

Dự báo trên được đưa ra vào đúng dịp tròn 1 thập kỷ ngân hàng đầu tư Lehman Brothers sụp đổ và châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến sự suy thoái dài hạn.

Đêm rạng sáng ngày 15 tháng 9 năm 2008, ngân hàng Lehman Brothers đã nộp đơn lên tòa xin phá sản và yêu cầu bảo vệ trước các chủ nợ. Động tác phá sản của ngân hàng đầu tư lớn thứ tư của Mỹ đã thành điểm khởi đầu của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, sau đó phát triển thành suy thoái toàn cầu.

Nguồn gốc của nó gắn với hàng loạt yếu tố thông thường: Chuỗi phát triển kinh tế chung và khủng hoảng chu kỳ trên thị trường thế chấp Mỹ trong năm 2007.

Kể từ đó, các nhà tài chính thiết lập những mô hình khác nhau nhằm dự báo về thời điểm và mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tiếp theo mà thế giới sẽ hứng chịu, xác định chu kỳ lặp lại trong nền kinh tế.

Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) có trụ sở tại Basel, được biết đến như là một “ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung ương” nhận định quá trình hồi phục sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 đã “rất thiếu cân bằng” với việc các nền kinh tế đang lên phải chịu đặc biệt nhiều áp lực.

Nhà kinh tế trưởng tại BIS ông Claudio Borio cho hay, các ngân hàng trung ương toàn cầu đã dùng “thuốc liều cao” trong nhiều năm liền dưới dạng “lãi suất thấp và kéo dài bất thường” để kiềm chế khủng hoảng. Liều thuốc này đã giúp thúc đẩy các hoạt động kinh tế, nhưng nó chỉ phù hợp cho một giai đoạn nhất định và “đi kèm những tác dụng phụ không thể tránh khỏi”.

Ví dụ như những khủng hoảng mới nổ ra gần đây tại Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina chính là kết quả của “triệu chứng thiếu thuốc” khi ngân hàng trung ương các nước này “giảm liều dùng” và không có biện pháp bổ trợ hiệu quả nào được đưa ra.

Còn các chuyên gia của JPMorgan Chase dựa trên mô hình riêng để đánh giá và rút ra kết luận rằng, cuộc khủng hoảng mới của nền kinh tế-xã hội thế giới sẽ diễn ra ​​vào đầu năm 2020.

Mô hình của họ được đánh giá dựa trên các yếu tố gồm quãng thời gian tăng trưởng kinh tế, độ dài dự báo của cuộc suy thoái tiếp theo, mức độ vay nợ, định giá tài sản, và mức độ nới lỏng các quy chế giám sát và mức độ sáng tạo tài chính.

Các nhà phân tích của nhà băng nhắc nhở rằng, trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, chỉ số S&P 500 (Standard & Poor’s 500 Stock Index – chỉ số cổ phiếu 500 của Standard & Poor, tức là một chỉ số cổ phiếu dựa trên cổ phiếu phổ thông của 500 công ty có vốn hóa thị trường lớn nhất niêm yết trên NYSE hoặc NASDAQ.) của thị trường chứng khoán Mỹ giảm 54% từ đỉnh, gây ra tác động siêu tiêu cực đến nền kinh tế Mỹ và thế giới.

Tuy nhiên, dự đoán lần khủng hoảng tiếp theo này có thể gây ra ít tác động tiêu cực hơn so với những lần khủng hoảng trước, bởi vì giá trị tài sản ở các nước đang phát triển hiện nay là thấp hơn nhiều so với năm 2008.

Các nhà đầu tư thụ động và khủng hoảng thanh khoản

Chiến lược gia Marko Kolanovic của JPMorgan Chase cho rằng, sự dịch chuyển mạnh mẽ khỏi hoạt động quản lý tài sản chủ động sang quản lý thụ động – thông qua sự nổi lên của các quỹ chỉ số (index fund), quỹ giao dịch hoán đổi (ETF) và các chiến lược giao dịch dựa trên định lượng, đã làm gia tăng mức độ nguy hiểm của sự gián đoạn thị trường.

JPMorgan chỉ ra rằng, sự suy giảm thanh khoản trên thị trường chứng khoán Mỹ vẫn ở vào khoảng 2/3 dưới mức trước khủng hoảng.

Tính thanh khoản trên các thị trường thu nhập cố định đã xấu đi, bởi vì các ngân hàng đang đóng một vai trò nhỏ hơn như các nhà sản xuất thị trường.

“Các sự kiện thị trường sau cú sốc 2008 đã dẫn đến sự suy giảm thanh khoản trên thị trường tài chính toàn cầu, vấn đề này có thể trở thành một nhân tố chính gây ra cuộc khủng hoảng tiếp theo” – các nhà phân tích của ngân hàng cho biết.

Sự suy giảm thanh khoản cùng với sự tăng trưởng của đầu tư thụ động làm suy yếu khả năng ngăn chặn sự sụt giảm lớn của thị trường, trong trường hợp biến động gia tăng, các chuyên gia tài chính giải thích thêm.

Các nhà phân tích cho rằng, việc thay đổi cấu trúc của thị trường cho vay thế chấp tại Mỹ tiềm tàng rủi ro lớn: tỷ lệ các khoản vay thế chấp phi ngân hàng tăng đến 80% (trước cuộc khủng hoảng chỉ chiếm ít hơn 20%).

Nguyên nhân là do các tổ chức tín dụng phi ngân hàng thường ít vốn hơn so với các ngân hàng; ngoài ra, yếu tố quan trọng là không có một cơ chế rõ ràng để xác định ai có thể đảm nhận vai trò nhà cung cấp dịch vụ phi ngân hàng nếu các tổ chức tín dụng này rời khỏi hoạt động kinh doanh.

Tăng trưởng lãi suất và các cuộc chiến thương mại

Khi nào sẽ bắt đầu cuộc khủng hoảng tiếp theo? Trong cuộc phỏng vấn với kênh truyền hình CNBC của Mỹ, chiến lược gia Marko Kolanovic nói, xác suất của một cuộc khủng hoảng trong nửa cuối năm 2019 vẫn khá thấp và có thể sẽ diễn ra vào năm 2020.

Theo ông, mức độ nguy cơ tái diễn khủng hoảng có thể được xác định chủ yếu bằng việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất, cùng với đó là việc Ngân hàng Trung ương châu Âu ECB sẽ kết thúc chương trình kích thích kinh tế vào cuối năm 2018.

Trên thực tế, trước đây các chuyên gia của Ngân hàng Mỹ Merrill Lynch cũng đã cảnh báo rằng, lãi suất tăng có thể châm ngòi cho một cuộc khủng nâng tài chính toàn cầu mới. Trong suốt năm 2018, các nhà đầu tư đang bán chứng khoán của các thị trường mới nổi. Lý do chính mà họ làm vậy là do FED tăng lãi suất để củng cố đồng dollars.

Theo các nhà phân tích của ngân hàng, tình hình hiện nay rất giống với những gì đã xảy ra hai thập kỷ trước, khi các nhà đầu tư ồ ạt rút vốn khỏi các thị trường mới nổi.

Còn Bank of America coi chính sách trừng phạt kinh tế do vấn đề chính trị và chính sách bảo hộ kinh tế của Washington là mối đe dọa lớn đối với sự ổn định kinh tế thế giới.

Các cuộc chiến thương mại với các ông lớn như Trung Quốc sẽ gây ra những tổn thất lớn cho thương mại quốc tế, ảnh hưởng đến giá cả và khả năng tiếp cận các sản phẩm trong chuỗi cung ứng, gây tổn hại lớn cho nền kinh tế toàn cầu.

  

Cuộc chiến thương mại với Trung Quốc và cấm vận thương mại với Nga sẽ góp phần làm suy thoái kinh tế Mỹ, gây tác động xấu đến nền kinh tế thế giới

Do đó, cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, sự trừng phạt kinh tế đối với Nga cũng có thể kích động hoặc là trì hoãn cuộc khủng hoảng, nhà phân tích nhận xét.

Chiến lược gia phân tích đầu tư nổi tiếng của Mỹ là ông James Rickards cho rằng, sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế Mỹ và châu Âu có thể dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, tương tự như những gì đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng năm 1929, và sau đó, sự suy thoái kinh tế kéo dài trên thế giới là không thể tránh khỏi.

Biến đổi xã hội

Các chuyên gia của JPMorgan Chase cảnh báo rằng, khác với cuộc khủng hoảng 10 năm trước, cuộc khủng hoảng mới mặc dù không gây thiệt hại kinh tế nhiều như vậy, nhưng sẽ gây ra tình trạng bất ổn quy mô lớn, đặc biệt là ở Mỹ. Tình trạng như vậy không được ghi nhận trong nửa thế kỷ qua, kể từ năm 1968.

Theo chiến lược gia Kolanovic, góp phần vào điều đó là sư lan truyền thông tin – cả thông tin đúng và thông tin thất thiệt, cùng với đó là các luồng ý kiến trái chiều và thông tin kích động trên mạng Internet và các mạng xã hội, nơi những nhóm khác nhau được hình thành.

Ngoài ra, các sự kiện chính trị, ví dụ như cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ và Brexit, chỉ đổ thêm dầu vào lửa, bởi chính những hỏa mù thông tin do các nước tung ra vì mục đích chính trị, hoặc những tư tưởng dân tộc cực đoan, ly khai…, cũng khiến bất ổn xã hội gia tăng.

Sự kết hợp giữa thảm họa kinh tế và các bất ổn xã hội có thể dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội mới trên phạm vi toàn cầu.

Các nhà phân tích nói rằng, nếu các ngân hàng trung ương tìm được giải pháp để ngăn chặn sự suy giảm mạnh giá trị tài sản, thì có lẽ, sẽ giảm bớt phần nào hậu quả nặng nề về kinh tế, từ đó, tránh những tác động xấu gây ra biến động xã hội.

Nếu không đạt được những thành công này, thế giới sẽ phải đối mặt tình trạng bất ổn và “những thay đổi mang tính phá hủy”, tiếp sau hai chu kỳ khủng hoảng kinh tế 10 năm là cuộc khủng hoảng tiền tệ tại khu vực châu Á năm 1997 là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008.

 
 

RELATED ARTICLES

Tin mới