Quan hệ đối tác an ninh Trung Quốc – Nga có những mặt hạn chế. Điều quan trọng là đừng bỏ qua các hạn chế ấy. Moscow và Bắc Kinh không tìm kiếm một liên minh chính thức, ít ra là trong giai đoạn hiện nay. Bắc Kinh không muốn bị lôi kéo vào cuộc đối đầu quân sự với Hoa Kỳ như là kết quả những bước đi sai lầm, hiếu chiến và không định trước của Nga ở Trung Đông hoặc châu Âu.
Tuần trước, Nga kết thúc Phương Đông-2018 (Vostok-2018), cuộc diễn tập quân sự lớn nhất của nước này kể từ khi Liên xô sụp đổ. Đây là lần đầu trong lịch sử có 3 nghìn binh lính Trung Quốc tập trận bên cạnh 300 nghìn lính Nga ở miền đông Siberia.
Từ trước đến nay Kremlin chỉ mời các đồng minh quân sự chính thức như Belarus tham gia những cuộc tập trận như vậy. Tại một buổi họp báo, có phóng viên hỏi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis: Cuộc tập trận có làm ông lo ngại về khả năng hình thành một liên minh quân sự Nga-Trung hay không? Jim Mattis nói: “Tôi thấy về lâu dài ít có khả năng Nga và Trung Quốc đứng cùng nhau”.
Đó là quan điểm của Mỹ, còn ở phương Tây, các nhà phân tích cho rằng, mối hoài nghi giữa Nga và Trung Quốc sâu sắc đến mức giữa hai bên khó mà hình thành những mối ràng buộc có ý nghĩa chiến lược. Tuy việc, những hoạt động nhằm làm sâu sắc mối quan hệ quân sự giữa hai cựu đối thủ này là có thật.
Phương Đông-2018 là điểm cao nhất của một cuộc chuyển dịch trong tư duy chiến lược về Trung Quốc của Nga
Từ hàng chục năm nay, cả Nga và Trung Quốc đều quan tâm đến việc duy trì hòa bình và yên tĩnh dọc theo đường biên giới chung dài 2.600 dặm giữa hai nước. Vào năm 1969, sau một cuộc xung đột chỉ diễn ra 2 ngày nhưng đẫm máu, cả hai nước đều tiêu tốn những nguồn lực khổng lồ và tốn kém vào việc bố trí quân đội dọc biên giới. Trong những năm 1980, họ chuyển sang phi quân sự hóa khu vực biên giới và bắt đầu từ năm 2004 họ dàn xếp được vụ tranh chấp lãnh thổ kéo dài.
Hiện tại giới lãnh đạo Trung Quốc đang đối mặt với những mối căng thẳng gia tăng với Washington về các vấn đề an ninh và thương mại, và nhiều vụ tranh chấp lãnh thổ. Bắc Kinh cũng đang tiếp tục theo đuổi mục tiêu lâu dài là giành lại quyền kiểm soát Đài Loan.
Một yếu tố đẩy Nga và Trung Quốc gần nhau hơn là sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Nga là một nước xuất khẩu nguyên liệu thô và có xu hướng thiếu sự tiếp cận cả những công nghệ tiên tiến trong công nghiệp lẫn tiền vốn. Còn Trung Quốc lại là một thị trường tiêu thụ khổng lồ các loại thương phẩm, đặc biệt là dầu mỏ và khí đốt. Trung Quốc lại là một quốc gia có công nghệ tiên tiến, với một nguồn tư bản dồi dào để đầu tư ra nước ngoài. Năm 2010 Trung Quốc đã vọt lên hàng đầu trong danh sách các đối tác thương mại của Nga.
Trung Quốc khiến Kremlin lo sợ bởi vì sự mất cân bằng về nhân khẩu học giữa vùng Viễn Đông dân cư thưa thớt của Nga với các tỉnh biên giới của Trung Quốc. Các tỉnh này là quê hương của khoảng 120 triệu người, nhiều người trong số đó kiếm sống bằng cách đi làm công nhân tạm cư ở Siberia. Nếu di dân Trung Quốc tiếp tục tràn sang và định cư ở Siberia, rồi lấy quốc tịch Nga thì về lâu dài xu hướng đó sẽ dẫn tới việc Nga bị mất lãnh thổ. Lại nữa, Trung Quốc rất giỏi ăn cắp các công nghệ quân sự nhạy cảm của Nga, chẳng hạn như thiết kế của máy bay chiến đấu Su-27 (bản sao chép của Trung Quốc gọi là J-11B), làm cho doanh số buôn bán vũ khí của Nga bị chậm lại.
Moscow bắt đầu tin rằng, dấu ấn kinh tế ngày càng tăng của Trung Quốc ở Trung Á là không thể tránh được. Sự thâm nhập sâu hơn vào vùng này của Trung Quốc đã thực sự làm giảm động lực của các nước Trung Á muốn tìm đường xuất khẩu sang Âu châu, bỏ qua nước Nga và tạo thêm áp lực lên các nhà xuất khẩu của Nga ngay ở thị trường lõi của họ.
Moscow sẽ vui vẻ sống chung khi Bắc Kinh thâm nhập sâu vào các nền kinh tế Trung Á chừng nào Trung Quốc vẫn chính thức tôn trọng Liên minh Kinh tế Á-Âu, một liên minh kinh tế do Moscow lãnh đạo. Kết quả của sự dịch chuyển lối tiếp cận này là sự phụ thuộc kinh tế của Nga vào Trung Quốc đã tăng nhanh từ năm 2014, và các ngân hàng Trung Quốc đã cung cấp những khoản vay hào phóng cho các công ty lớn do nhà nước sở hữu của Nga cũng như cho những thành viên trong bộ sậu của Putin – những người có tên trong nhiều danh sách cấm vận của phương Tây.
Sự thù địch của Washington đối với cả hai chế độ là yếu tố quan trọng trong việc cải thiện quan hệ Nga -Trung. Chiến lược An ninh quốc gia mới của Hoa Kỳ gộp chung Trung Quốc và Nga vào chỗ “cố gắng xói mòn an ninh và thịnh vượng của Hoa Kỳ”; Chiến lược Mạng (Cyber Strategy) của Bộ Quốc phòng cũng nhận định như vậy.
Theo các nhà bình luận, khi chưa có một hiệp ước an ninh chính thức giữa Nga và Trung Quốc theo kiểu NATO, sẽ là một sai lầm nếu Washington và các đồng minh bỏ qua những hậu quả của mối quan hệ đối tác quân sự đang tăng lên này.
Những cuộc tập trận như Phương Đông-2018 giúp cải thiện khả năng hoạt động chung giữa các lực lượng Nga và Trung Quốc, có thể sẵn sàng hiện diện ở những điểm nóng khu vực như Trung Á hoặc bán đảo Triều Tiên.
Việc nâng cao lòng tin giữa quân đội Nga và Trung Quốc có thể dẫn tới sự hợp tác và phối hợp ngày càng tăng trên không gian mạng, đặc biệt là trong việc dò tìm những chỗ dễ bị tấn công trong hệ thống thông tin quân sự và dân sự của Hoa Kỳ. Ở mức độ tối thiểu, hiện nay người ta tin rằng các cơ quan phản gián của Nga và Trung Quốc đã chia sẻ cho nhau thông tin bí mật về các hoạt động của CIA nhằm chống lại họ.
Điều làm Bắc Kinh quan tâm nhất là gia tăng dòng chảy các vũ khí tinh vi của Nga nhằm giúp cải thiện tối đa năng lực chiến đấu của quân đội Trung Quốc trong tương lai gần. Hệ thống tên lửa đất đối không tiên tiến S-400 mà Trung Quốc mua của Nga năm 2014 và bắt đầu triển khai đầu năm nay có thể cho phép Bắc Kinh kiểm soát toàn bộ không phận của Đài Loan, khiến cho việc bảo vệ hòn đảo này trở thành một nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều của không quân Đài Loan và cả các nhà kế hoạch quân sự Hoa Kỳ.
Nhận thức chung ở Washington và các thủ đô Âu châu khác đang bỏ qua cái cấp độ mà những chính sách thiển cận của Hoa Kỳ đang đẩy Nga và Trung Quốc tới gần nhau hơn.