Tờ ‘The Diplomat’ gần đây cho đăng một bài viết của Trịnh Lê, Thạc sỹ Đại học Melbourne, phóng viên tạp chí ‘Meld Magazine’, trong đó phân tích những tác động của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung, đối với Biển Đông và các nước ASEAN.
Ông Trịnh Lê cho rằng thương mại và đại dương luôn là những thứ không thể tách rời trong cuộc đấu tranh giành quyền tối cao toàn cầu. Năm 1829, nhà thám hiểm người Anh Walter Raleigh đã viết: “Đối với bất cứ ai thống trị được biển, người đó thống trị thương mại; Ai thống trị được thương mại, người đó thống trị sự giàu có của thế giới, và do đó là thống trị thế giới”.
Đó là trường hợp của Vương quốc Anh với thời kỳ ‘Hòa bình Anh Quốc’ (Pax Britannica) ở thế kỷ 19 [khi Đế quốc Anh bá chủ thế giới với vai trò của một cảnh sát toàn cầu], Mỹ với ‘Thái Bình Mỹ’ (Pax Americana) ở thế kỷ 20, và sẽ là trường hợp của Trung Quốc, nếu muốn xây dựng ‘Thái bình Trung Hoa’ (Pax Sinica) trong thế kỷ 21, ông Trịnh Lê nhận định.
Do đó, theo ông Trịnh Lê, không phải ngẫu nhiên mà Bắc Kinh bắt đầu chiến dịch xây dựng đảo ở Biển Đông vào quãng thời gian mà khi Trung Quốc vượt qua Mỹ trở thành quốc gia thương mại lớn nhất thế giới.
Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence đã đưa ra những lời cáo buộc chưa từng có trong tháng 10/2018 về những hoạt động thương mại không công bằng và sự hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Do đó, việc tăng cường chiến tranh thương mại, do Tổng thống Mỹ Trump khởi xướng, không phải là một cuộc tranh cãi bình thường, mà là một sự thay đổi từ một “sự chung sống hòa bình sang một hình thức đối đầu mới”, giữa Mỹ và Trung Quốc.
Hiểu được cuộc chiến thương mại trong bối cảnh này, chắc chắn sẽ đặt ra câu hỏi về việc nó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các tranh chấp Biển Đông?
Theo ông Trịnh Lê, khía cạnh tác động chính sẽ là kinh tế. Để chính thống hóa, một chế độ độc tài như Trung Quốc phụ thuộc chủ yếu vào hiệu quả kinh tế xã hội. Khi đất nước chịu đựng khó khăn về kinh tế, các nhà lãnh đạo tại Trung Nam Hải sẽ khuấy động chủ nghĩa dân tộc, để chuyển hướng sự không hài lòng của dân chúng; Ví dụ như quyết định của Argentina khởi xướng cuộc chiến tranh Falklands với Vương quốc Anh trong năm 1982.
Chắc chắn, cuộc chiến thương mại vừa mới bắt đầu và vẫn còn chưa rõ điều gì đang ở phía trước. Tuy nhiên, nền kinh tế Trung Quốc đã bị tổn thất. Trong quý 3 năm 2018, tăng trưởng GDP của Trung Quốc giảm xuống còn 6,5% – mức thấp nhất trong một thập kỷ – và thậm chí có thể xuống mức 5% khi đối mặt với tác động đầy đủ của suy thoái thương mại. Tâm trạng bi quan thậm chí còn lan truyền sang một số nhà đầu tư lớn nhất của Trung Quốc. Các công ty Morgan Stanley, Nomura Holdings, Jefferies Group, và gần đây nhất JPMorgan đã cắt giảm số lượng cổ phần nắm giữ ở Trung Quốc vì lo sợ một kịch bản chiến tranh thương mại toàn diện. Nếu tình hình này tiếp tục, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên nếu Bắc Kinh chọn ‘chơi chủ nghĩa dân tộc’ bằng cách thể hiện lập trường hung hăng hơn trong các tranh chấp hàng hải của mình.
Điều này dễ xảy ra vì Trung Quốc có khả năng làm như vậy. Bắc Kinh đã đầu tư rất nhiều để củng cố năng lực quân sự, đặc biệt là lực lượng hải quân. Một báo cáo năm 2018 của Bộ Quốc phòng Mỹ tiết lộ Trung Quốc hiện đang sở hữu “lực lượng ‘dân quân’ hàng hải lớn nhất và có năng lực nhất trên thế giới”. Trong khi Hải quân Mỹ có 282 tàu chiến có thể triển khai được, tính đến tháng 8/2018, thì hải quân Trung Quốc có “hơn 300 tàu nổi, tàu ngầm, tàu đổ bộ, tàu tuần tra và các tàu chuyên dụng”, giúp cho nó trở thành lực lượng hải quân lớn nhất trong khu vực Ấn Độ -Thái Bình Dương.
Trung Quốc đã trang bị các hòn đảo nhân tạo tại Biển Đông với 24 xưởng cất máy bay, đường băng, thiết bị liên lạc, vị trí vũ khí đã cố định và doanh trại. (Ảnh: DigitalGlobe/ Getty Images)
Theo Giáo sư Robert S. Ross tại Đại học Harvard, nếu có một cuộc chiến tranh hải quân giữa Trung Quốc và Mỹ xảy ra cách đây 10 năm, Mỹ sẽ chiến thắng dễ dàng. Tuy nhiên, nếu nó xảy ra bây giờ, cuộc chiến sẽ kéo dài, gay go, và gây thiệt hại cho cả 2 phía.
Điều đó giải thích tại sao Trung Quốc lại tự tin về lập trường hiếu chiến của mình ở Biển Đông, kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh thương mại.
Bên cạnh những cuộc trao đổi, đối thoại căng thẳng giữa 2 nước, tháng trước, một tàu khu trục Trung Quốc đã thách thức một tàu khu trục Mỹ, khi chiếc tàu chiến Mỹ tiến vào vùng biển, gần một trong những hòn đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông.
Rủi ro xung đột leo thang khi chính quyền của Tổng thống Trump đã không do dự thách thức trực tiếp vị thế của Trung Quốc. Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đe dọa sẽ chống lại Trung Quốc ở mọi thời điểm. Trong những năm gần đây, Mỹ đã tăng cường sự hiện diện quân sự ở Biển Đông, thông qua các “hoạt động tự do hàng hải”. Gần đây, Mỹ đã mở rộng phạm vi của cuộc tuần tra này lên không phận, khi một chiếc máy bay trinh sát P-8A Poseidon của Mỹ, bay qua 4 hòn đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng, vào tháng 8/2018, phớt lờ cảnh báo liên tục của quân đội Trung Quốc. Mỹ thậm chí còn khuyến khích các đồng minh của mình làm như vậy. Pháp, Anh và một số nước khác đã bắt đầu tham gia các hoạt động này.
Theo ông Trịnh Lê, chiến lược Ấn Độ -Thái Bình Dương của Tổng thống Trump có thể được xem như một hành động cân bằng, chống lại Sáng kiến Một vành đai Một con đường của Trung Quốc. Washington cũng đang tham gia vào liên minh 4 bên (Quad Coalition), bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc, để ngăn chặn tham vọng bành trướng hàng hải của Bắc Kinh. Việt Nam, hiện là đối tác chiến lược của Hoa Kỳ, giờ đây có thể mua vũ khí của Mỹ do lệnh cấm vận đã được dỡ bỏ vào năm 2016. Việt Nam được coi là quốc gia có tuyên bố chủ quyền thách thức nhất trong các tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc.
Ông Trịnh Lê cho rằng lập trường không khoan nhượng của Tổng thống Trump, được thể hiện trong những tuyên bố cứng rắn của Washington về xung đột với Trung Quốc, khó có thể giảm bớt khi cuộc chiến tranh thương mại ngày càng gia tăng. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng sẽ không lùi bước. Được coi là nhà lãnh đạo quyền lực nhất kể từ thời ông Đặng Tiểu Bình, ông Tập không muốn ‘trông yếu đuối’ trước người dân trong nước. Gần đây, ông Tập đã nói với lực lượng quân đội chịu trách nhiệm giám sát Biển Đông và Đài Loan rằng “phải chuẩn bị cho chiến tranh”, trong một nỗ lực lặp lại các yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh. Mặc dù khả năng xảy ra chiến tranh là rất thấp, nhưng cũng không thể loại trừ.
Đối với các quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, chẳng hạn như Việt Nam và Philippines, tình huống phức tạp và đan xen của cuộc đấu tranh giữa các nước lớn có thể có những hệ quả lẫn lộn. Về mặt kinh tế, tranh chấp thương mại Mỹ – Trung thực tế có thể có lợi cho các nước Đông Nam Á, vì nhiều sản phẩm của họ đang cạnh tranh với các sản phẩm của Trung Quốc. Trong trường hợp không có hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc, các sản phẩm của ASEAN có thể là sản phẩm thay thế lý tưởng. Ngoài ra, đầu tư nước ngoài có thể chuyển dịch sang ASEAN để tránh mức thuế cao hơn, một động thái thường được gọi là chiến lược “Trung Quốc cộng Một”.
Ông Trịnh Lê nhận thấy có một tác động tiêu cực tiềm ẩn là khả năng hàng tiêu dùng Trung Quốc tràn ngập vào thị trường nội địa Đông Nam Á, đe dọa sự tồn tại của các nhà sản xuất địa phương, đặc biệt là trong các lĩnh vực dệt may, cơ khí, thép và vật liệu xây dựng.
Nhưng, liên quan đến một cuộc tranh chấp hàng hải leo thang, thì tất cả các quốc gia đều bị tổn hại. Các quốc gia Đông Nam Á mong muốn có một trật tự dựa trên luật pháp và có thể dự đoán được ở Biển Đông, chứ không phải tăng cường quân sự hóa và bất ổn. Sự tham gia tích cực của Mỹ trong khu vực nhằm mục đích kiềm chế các hoạt động bành trướng của Bắc Kinh, khiến cho Trung Quốc trở thành một bên liên quan có trách nhiệm, chứ không phải thúc đẩy sự hung hăng của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, có rủi ro biến toàn bộ khu vực trở thành ‘điểm nóng’ của châu Á.
Bị quân đội Trung Quốc áp đảo về quân sự và kinh tế, các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông không thể đủ khả năng cạnh tranh với Bắc Kinh trong một kịch bản đối đầu nhiều hơn. “Một nước dân tộc chủ nghĩa và ‘bị tổn thương’ như Trung Quốc, đối mặt với hậu quả kinh tế của cuộc chiến tranh thương mại, sẽ là một viễn cảnh nguy hiểm cho Biển Đông”, ông Trịnh Lê kết luận.