Lập trường nhất quán của Việt Nam là khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa theo quy định của UNCLOS. Việt Nam đã chủ động tích cực triển khai đồng bộ một loạt công tác nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích trên Biển Đông.
Việt Nam có đầy đủ chứng cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
Cho đến thế kỷ XVII, 2 quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là các đảo vô chủ. Vào nửa đầu thế kỷ XVII, chúa Nguyễn đã tổ chức “Đội Hoàng Sa” hàng năm ra Hoàng Sa thu lượm hải vật, đánh bắt hải sản, đo vẽ, trồng cây và dựng mốc trên đảo, đến nửa đầu thế kỷ XVIII, tổ chức thêm “Đội Bắc Hải” ra Trường Sa làm nhiệm vụ như “Đội Hoàng Sa”. Liên tục từ đó, Việt Nam đã có nhiều hoạt động củng cố chủ quyền trên 2 quần đảo như: Năm 1925 duy trì tuần tra trên đảo, đưa quân đội trú đóng; năm 1933 – 1938, thành lập đơn vị hành chính, đặt cột mốc, xây hải đăng, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện; lên tiếng phản đối các nước nêu yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa; năm 1951, khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại hội nghị San Francisco mà không gặp phải ý kiến phản đối nào; năm 1956 quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy và năm 1961, chuyển quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Thừa Thiên về tỉnh Quảng Nam quản lý; năm 1977 tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; năm 1982 thành lập huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng; năm 1994 tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982, năm 2003, ban hành Luật Biên giới quốc gia, tháng 4 năm 2007 thành lập thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh Tồn thuộc huyện đảo Trường Sa. Hiện nay, huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa… Việt Nam đã nhiều lần công bố Sách Trắng về chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu hòa bình, quản lý liên tục, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Cơ sở pháp lý quốc tế để bảo vệ chủ quyền và quyền lợi của Việt Nam trên Biển Đông
Liên hợp quốc luôn giữ vai trò hàng đầu trong các nỗ lực ngăn ngừa và giải quyết các cuộc xung đột, góp phần to lớn vào việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, duy trì hòa bình và xây dựng một thế giới phát triển, ấm no và hạnh phúc. Việt Nam là một trong những thành viên của Liên hợp quốc, đã tham gia ký kết và thực hiện nghiêm túc Hiến chương Liên hợp quốc (Hiến chương). Để thực hiện sứ mệnh đó, Điều 1 của Hiến chương đã chỉ rõ, 4 mục tiêu chính của Liên hợp quốc gồm: Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế; Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết; Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn giáo; Xây dựng Liên hợp quốc làm trung tâm điều hòa các nỗ lực quốc tế vì mục tiêu chung. Ngoài ra, các nguyên tắc hoạt động chủ đạo của Liên hợp quốc được quy định rõ trong Hiến chương là: Bình đẳng về chủ quyền quốc gia; Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia; Cấm đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; Không can thiệp vào công việc nội bộ các nước; Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế; Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. Theo đó, Hiến chương đã trao cho Việt Nam có quyền bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích ở Biển Đông.
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia. Công ước là một văn kiện pháp lý đa phương và được đánh giá là một bản Hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế. Công ước đã trù định toàn bộ các quy định liên quan đến các vùng biển mà một quốc gia ven biển có quyền được hưởng, cũng như những quy định liên quan đến việc sử dụng, khai thác biển và đại dương, cụ thể là: Quy chế pháp lý của tất cả các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia; Chế độ pháp lý đối với biển cả và Vùng-di sản chung của loài người; Các quy định hàng hải và hàng không; Việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển bao gồm tài nguyên sinh vật và không sinh vật; Vấn đề bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an ninh trật tự trên biển; Việc giải quyết tranh chấp và hợp tác quốc tế về biển; Quy chế hoạt động của cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Ủy ban ranh giới ngoài thềm lục địa, tòa án Luật Biển quốc tế, hội nghị các quốc gia thành viên Công ước…
Là một trong những nước tham gia Công ước, Việt Nam có quyền bảo vệ chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông một cách hợp pháp, theo đúng các quy định của UNCLOS. Theo đó, UNCLOS trao cho các nước thành viên những quyền sau đây: (1) Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ đối với vùng lãnh hải mà họ có quyền thiết lập với chiều rộng không quá 12 hải lý. (2) Ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định dựa trên các quy tắc áp dụng cho lãnh thổ đất liền. Việt Nam có biên giới với eo biển có thể điều tiết lưu thông hàng hải và các khía cạnh khác liên quan đến đi lại, lưu thông. (3) Việt Nam có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế rộng tối đa 200 hải lý, đối với tài nguyên thiên nhiên và một số hoạt động kinh tế và thực hiện quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường. (4) Việt Nam có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa (khu vực đáy biển của quốc gia) trong việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa. Thềm lục địa có thể kéo dài ít nhất là 200 hải lý từ bờ biển và có thể kéo dài không quá 350 hải lý trong những điều kiện cụ thể. (5) Việt Nam cũng như các nước đều có quyền tự do truyền thống về hàng hải, bay qua, nghiên cứu khoa học và đánh cá trên vùng biển quốc tế. Các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau trong việc thông qua các biện pháp để quản lý và bảo tồn các tài nguyên sống trên biển. (6) Biển Đông là biển nửa kín, Việt Nam có quyền hợp tác với các nước trong việc quản lý tài nguyên, ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển. (7) Việt Nam có quyền và nghĩa vụ giải quyết bằng biện pháp hòa bình các tranh chấp liên quan đến việc hiểu và áp dụng Công ước. Các tranh chấp cần được trình lên Tòa án quốc tế về Luật Biển (được thành lập theo Công ước), trình lên Tòa án công lý quốc tế hoặc trọng tài. Tòa án có quyền tài phán riêng biệt đối với những tranh chấp liên quan đến khai thác ở đáy biển.
Như vậy, tham gia Công ước, Việt Nam là quốc gia ven biển, được thừa nhận có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, thềm lục địa rộng ít nhất 200 hải lý và có thể mở rộng tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở. Diện tích các vùng biển và thềm lục địa mà nước ta được hưởng theo quy định của Công ước, khoảng gần 1.000.000 km2, rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền. Công ước cũng đã trở thành cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc, quan trọng, được thừa nhận và luôn được viện dẫn trong cuộc đấu tranh để bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa, các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên Biển Đông. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh những chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập liên tục, hòa bình từ lâu đời đối với hai quần đảo, Công ước là công cụ pháp lý để phản bác những yêu sách phi lý của Trung Quốc đối với cái gọi là “đường lưỡi bò” ở Biển Đông. Công ước cũng là cơ sở pháp lý chung cho việc phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa nước ta với các nước xung quanh Biển Đông, góp phần tạo dựng sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tạo môi trường ổn định, hòa bình, hợp tác và phát triển trong Biển Đông.
Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc năm 2002 (DOC):
Việt Nam là thành viên của ASEAN, vì thế DOC có ý nghĩa quan trọng và nó cũng trao cho Việt Nam cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông. Theo các quy định của DOC: Các bên khẳng định lại cam kết đối với những mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương, UNCLOS, Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á. Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình và các nguyên tắc phổ cập khác của luật pháp quốc tế, là những quy tắc cơ bản điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia. Các bên liên quan cam kết giải quyết những tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực. Ngoài ra các bên cam kết tìm ra những phương cách để tạo dựng sự tin cậy và lòng tin trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau; giải quyết tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình; tự kiềm chế không tiến hành các hoạt động làm phức tạp hoặc gia tăng các tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định; trên cơ sở UNCLOS. Các nước liên quan khẳng định tiếp tục đàm phán để thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC) nhằm thúc đẩy hơn nữa hòa bình và ổn định trong khu vực.
Luật Biển Việt Nam, một trong những căn cứ pháp lý quan trọng để bảo vệ chủ quyền biển, đảo:
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (21/6/2012) đã biểu quyết thông qua Luật Biển Việt Nam. Luật này có hiệu lực từ 01/01/2013, bao gồm 7 chương và 55 điều, quy định các nội dung chủ yếu sau: nguyên tắc, chính sách quản lý và bảo vệ biển; phạm vi và quy chế các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa; quy chế các đảo, quần đảo Việt Nam; các hoạt động trong vùng biển Việt Nam; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển; tuần tra kiểm soát trên biển; hợp tác quốc tế về biển. Trong đó, có 5 điểm đáng chú ý sau: (1) Tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam; (2) Quy định về việc xác định đường cơ sở, phạm vi và chế độ pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam (nội thủy, lãnh hải) và các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam; (3) Làm rõ thêm khái niệm về đảo, quần đảo, đá… phù hợp với các quy định của Công ước và bảo đảm quyền lợi biển của Việt Nam; (4) Quy định về phát triển kinh tế biển, huy động mọi nguồn lực của Nhà nước, công dân, các tổ chức trong và ngoài nước, trên cơ sở nguyên tắc phát triển kinh tế biển phải gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn trên biển; (5) Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng, tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, phù hợp với Công ước, pháp luật và thực tiễn quốc tế.
Việc thông qua Luật Biển Việt Nam là để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của Việt Nam, phục vụ cho việc sử dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát triển kinh tế biển của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đây là một trong những hoạt động lập pháp quan trọng nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan biển, đảo của Việt Nam. Lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản luật quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam theo đúng Công ước.
Cùng với Luật Biển, Việt Nam cũng đã ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa các chủ trương về quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, như Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển và đường cơ sở năm 1977 và 1982; Luật Dầu khí năm 1993, Bộ Luật Hàng hải năm 1991; Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 1991; Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997; Pháp lệnh lực lượng cảnh sát biển Việt Nam năm 1998; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015.
Một số hoạt động thực thi để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam ở Biển Đông
Lập trường nhất quán của Việt Nam là khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa theo quy định của UNCLOS. Việt Nam đã chủ động tích cực triển khai đồng bộ một loạt công tác nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích trên Biển Đông, cụ thể: (1) Ban hành chiến lược biển đến năm 2020: Chiến lược Biển Việt Nam thể hiện rõ quan điểm hợp tác quốc tế về biển, góp phần xây dựng vùng biển hòa bình, hợp tác, hữu nghị, cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Hợp tác quốc tế về biển phải nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của Việt Nam, khai thác biển có hiệu quả và phát triển bền vững biển; trong đó chú ý bảo đảm an ninh chung và giải quyết những tranh chấp trên biển. (2) Về pháp lý: Việt Nam đã xây dựng và trình Liên Hợp quốc báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa khu vực phía Bắc, đồng thời phối hợp với Malaysia xây dựng và trình Liên Hợp quốc báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa phía Nam. Năm 2003, ban hành Luật Biên giới quốc gia, năm 2012, ban hành Luật Biển Việt Nam. (3) Về quản lý hành chính: Đã triển khai thành lập huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng; huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa; trong đó có thị trấn Trường Sa và 2 xã Song Tử Tây, Sinh Tồn; hiện có nhiều hộ gia đình sinh sống trên đảo; xây dựng nhà khách, nhà tưởng niệm Bác Hồ, dựng tượng Quốc công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, xây dựng chùa…; triển khai một số dự án quan trọng như nuôi trồng hải sản, chương trình năng lượng sạch và hệ thống chiếu sáng ở các đảo trên huyện đảo Trường Sa; đã phủ sóng truyền hình, đài phát thanh, điện thoại di động lên toàn bộ Biển Đông. Nhiều đoàn trong cả nước thường xuyên ra thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đang sinh sống, làm việc trên quần đảo Trường Sa. (4) Về kinh tế: Các hoạt động về thăm dò, khai thác dầu khí của Việt Nam đã và đang diễn ra bình thường, Việt Nam đang tiếp tục duy trì hợp tác với các tập đoàn dầu khí lớn của Nga, Mỹ, Canada, Australia, Ấn độ, Nhật, Hàn Quốc trên vùng đặc quyền 200 hải lý và thềm lục địa… (5) Về quốc phòng, an ninh: Việt Nam đã thành lập lực lượng Cảnh sát Biển, Vùng II Hải quân… Hải quân, không quân thường xuyên được nâng cao năng lực phòng thủ và tăng cường hoạt động tuần tra trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam. Các lực lượng tuần tra, kiểm soát của bộ đội biên phòng, cảnh sát biển thường xuyên triển khai các công việc để quản lý các hoạt động trên biển, xua đuổi, xử lý hành chính các vụ việc tàu cá nước ngoài vi phạm vùng biển của Việt Nam. (6) Về ngoại giao: Việt Nam kiên trì đấu tranh có lý, có tình ở các cấp khác nhau, song phương và đa phương, qua cả kênh chính thức và không chính thức; kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh dư luận và vận động quốc tế. Việt Nam đã chủ động vận động qua nhiều kênh, nhiều cấp khác nhau, kể cả cấp cao, làm rõ lập trường đúng đắn của Việt Nam; phê phán yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý của Trung Quốc, ủng hộ thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa các nước ASEAN và Trung Quốc năm 2002, tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định ở biển Đông…
Một số chủ trương, giải pháp quản lý, bảo vệ biển đảo của Việt Nam
Liên quan vấn đề Biển Đông, Việt Nam kiên trì với chủ trương giải quyết bằng biện pháp hòa bình. Quan điểm chỉ đạo của Việt Nam là phải kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời cũng phải giữ được sự ổn định chính trị trong nước và môi trường hòa bình, ổn định với các nước trong khu vực, trên thế giới để xây dựng và phát triển đất nước.
Về vấn đề an ninh truyền thống, trên Biển Đông, Việt Nam còn tồn tại bốn vấn đề lớn liên quan đến chủ quyền lãnh thổ chưa giải quyết được và cần phải giải quyết, đó là: bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ chủ quyền và giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa 5 nước 6 bên, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philipines, Brunei, Đài Loan (Trung Quốc); phân định ranh giới các vùng biển theo UNCLOS 1982 và xác định ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cùng với đó, những nhân tố gây mất ổn định, xâm phạm chủ quyền, an ninh vùng biển Việt Nam vẫn đang diễn ra gay gắt; nguy cơ xung đột vũ trang, tranh chấp trên biển, đảo và thềm lục địa của nước ta vẫn chưa được loại trừ do đang tồn tại những nhận thức khác nhau về chủ quyền; có những yêu sách chủ quyền trái với thông lệ và luật pháp quốc tế; áp đặt tư duy chủ quan, nước lớn trong các hoạt động ở Biển Đông như đẩy mạnh việc xây đắp phi pháp các đảo nhân tạo, cải tạo các đảo đã chiếm đóng trái phép, nỗ lực đơn phương nhằm thay đổi hiện trạng trên Biển Đông; tăng cường các hoạt động chống phá, mở rộng vùng hoạt động kinh tế;… Những hoạt động này đe dọa và ảnh hưởng không chỉ đối với an ninh quốc phòng của Việt Nam mà cả an ninh, an toàn của nhiều nước trong khu vực.
Về an ninh phi truyền thống, tình hình an ninh hàng hải khu vực Biển Đông thời gian qua diễn biến rất phức tạp và có chiều hướng gia tăng các vụ việc nghiêm trọng, gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng lớn đến môi trường an ninh trên biển. Theo thống kê của Lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam, từ đầu năm 2014 đến nay đã có 2 tàu vận tải biển của Việt Nam bị cướp biển tấn công; 3 vụ xô xát trên vùng biển Vịnh Thái Lan giữa ngư dân Việt Nam với tàu Thái Lan và Campuchia; 71 tàu cá Việt Nam bị bắt giữ trên các vùng biển giáp ranh với Indonesia, Thái Lan, Campuchia và Malaysia; nhiều tàu thuyền nước ngoài đã tấn công, đâm, gây thiệt hại cho tàu cá của ngư dân Việt Nam trên vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Không những vậy, buôn lậu, gian lận thương mại trên biển với các phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt cũng là nguy cơ, thách thức lớn đối với các cơ quan chức năng nói chung và Lực lượng Cảnh sát Biển nói riêng.
Một số chủ trương, giải pháp để quản lý, bảo vệ biển đảo Việt Nam
Chủ trương của Việt Nam là giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương, UNCLOS, DOC, Luật Biển Việt Nam. Yêu cầu chiến lược của Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; giữ quan hệ hữu nghị hợp tác với Trung Quốc, các nước ASEAN và các nước khác. Chủ trương cụ thể là: (1) Trong xử lý vấn đề Biển Đông, cần giữ vững độc lập, tự chủ, gắn bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia với giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước. Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế. (2) Tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; kiên định bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo luật pháp quốc tế, tăng cường thực hiện và bảo vệ kinh tế biển, nhất là hoạt động dầu khí và đánh bắt cá trong phạm vi 200 hải lý; bác bỏ yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc. (3) Duy trì nguyên trạng Biển Đông; bảo vệ quyền đánh bắt cá chính đáng của ngư dân Việt Nam trên Biển Đông. Việt Nam chủ động, tích cực cùng các bên liên quan đàm phán tìm giải pháp cơ bản lâu dài mà các bên có thể chấp nhận được đối với các khu vực tranh chấp. (4) Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo vệ chủ quyền lãnh thổ với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, coi trọng quan hệ hữu nghị hợp tác Việt – Trung và các nước có liên quan, phấn đấu không để xảy ra xung đột quân sự ở Biển Đông.