Sunday, December 22, 2024
Trang chủNhìn ra thế giớiMột số đánh giá về hoạt động quân sự của Mỹ và...

Một số đánh giá về hoạt động quân sự của Mỹ và Nhật Bản ở Biển Đông

Trong những năm gần đây, Mỹ và Nhật Bản đã, đang tích cực tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực Biển Đông, nhằm đóng góp vào việc bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực và thúc đẩy giải quyết hòa bình, theo luật quốc tế các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.

Quan điểm của Mỹ liên quan vấn đề Biển Đông:

Biển Đông không chỉ có vai trò quan trọng đối với các quốc gia trong khu vực mà còn đối với các quốc gia ngoài khu vực. Những năm gần đây sự hiện diện của Mỹ tại Biển Đông ngày càng thường xuyên và đông đảo. Mỹ có tổng lượng hàng hóa qua vùng này chiếm 1/5 và 20% trên tổng số 5.000 tỷ USD giá trị giao thương hàng hóa hàng năm. Chính vì vậy, Mỹ đặc biệt quan tâm đến sự biến động của tình hình trên BiểnĐông. Giới chức của Mỹ nhiều lần đưa ra các tuyên bố thể hiện quan điểm, lập trường của Washington trong vấn đề Biển Đông: (1) Mỹ là quốc gia có lợi ích đối với tự do hàng hải, tiếp cận mở đối với không gian hàng hải vùng biển chung châu Á nên Mỹ sẽ đảm bảo tự do đó cho chính quốc gia trên cơ sở tôn trọng luật biển quốc tế của các quốc gia duyên hải trong khu vực Biển Đông; (2) Mỹ đứng ở vị trí trung lập không ủng hộ bên nào mặc dù trong đó có bên đồng minh truyền thống (Thái Lan và Philippines) trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông; tuy nhiên Mỹ sẽ can dự vấn đề liên quan đến tự do hàng hải, hàng không vì nó xâm phạm trực tiếp đến lợi ích của Mỹ; (3) Mỹ tăng cường hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ các nước khu vực nhằm thúc đẩy tiến trình đàm phán hòa bình trong việc giải quyết các tranh chấp Biển Đông. Đồng thời phản đối việc sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực bởi bất kì bênnào; (4) Mỹ hỗ trợ các sáng kiến an ninh và biện pháp xây dựng lòng tin phù hợp với DOC cho khối ASEAN; đồng thời thông qua các biện pháp ngoại giao thúc đẩy các nước sớm thông qua COC; (5) Mỹ sẽ thường xuyên hiện diện ở Biển Đông thông qua các cuộc tập trận nhằm làm cán cân đối trọng với Trung Quốc và hơn hết là bảo vệ lợi ích chính đáng của Mỹ tại khu vực này.

Chính sách và mục tiêu chiến lược của Mỹ ở Biển Đông

Chính sách của Mỹ ở Biển Đông mang tính phản ứng. Phụ thuộc vào những tranh chấp trên Biển Đông, những sự kiện xảy ra này có tính chất đe dọa đến lợi ích của Mỹ. Trong đó, Mỹ tăng cường hiện diện ở Biển Đông là nhằm ngăn chặn các hành động gây hấn của Trung Quốc và tăng cường sự ổn định bằng cách cũng cố các mối liên minh và quan hệ đối tác trong khu vực; tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ ở châu Á trong chính sách xoay trục bao gồm sự hiện diện mạnh mẽ trong và xung quanh Biển Đông; hỗ trợ các nước trong khu vực nâng cao năng lực đảm bảo an ninh hàng hải; tìm cách giảm rủi ro của những tính toán sai lầm và xung đột không chủ ý với Trung Quốc ở Biển Đông và các nơi khác tại châu Á, bằng cách cải thiện các mối quan hệ quân sự và thống nhất về các biện pháp tránh xung đột.

Từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump lên cầm quyền, Mỹ đã điều chỉnh chính sách về Biển Đông như sau: Đầu tiên, Mỹ thay đổi lập trường trung lập trước đây, gia tăng mức độ can dự bằng nhiều hình thức khác nhau. Thứ hai, Mỹ tăng cường phản đối việc Trung Quốc quyết đoán khẳng định “chủ quyền” của Bắc Kinh trái với luật pháp quốc tế, ngăn chặn Trung Quốc độc chiếm Biển Đông, nỗ lực duy trì hiện trạng sao cho các đảo ở Biển Đông được nhiều nước chiếm lĩnh. Thứ ba, Mỹ chủ trương giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán đa phương, tích cực ủng hộ chủ trương ASEAN hóa, khu vực hóa, quốc tế hóa vấn đề Biển Đông của Việt Nam, Philippines và các nước tuyên bố chủ quyền khác. Mỹ không chấp nhận Trung Quốc công bố chủ quyền phi lý trên Biển Đông, coi những hành động ngang ngược của Trung Quốc là nhân tố gây mất ổn định trong khu vực.

Đánh giá về hoạt động quân sự của Mỹ ở Biển Đông

Từ năm 2010 đến nay, Mỹ liên tục triển khai các hoạt động quân sự ở Biển Đông, trong đó nổi bất là việc cử tàu chiến (tàu sân bay, tàu khu trục, tàu ngầm…), máy bay (máy bay chiến đấu, máy bay ném bom B-52, máy bay trinh sát…) tuần tra đảm bảo tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông; tích cực cử tàu chiến tham gia các hoạt động tập trận trong khu vực; tăng cường các hoạt động giao lưu hải quân với các nước ven Biển Đông; củng cố sức mạnh quân sự của Mỹ tại các căn cứ quân sự ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan; đẩy mạnh các hoạt động viện trợ quân sự cho các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên Biển Đông…

Đánh giá một cách tổng thể, các hoạt động quân sự của Mỹ ở Biển đều tuân thủ đúng những quy định của luật pháp quốc tế, cụ thể: (1) Mỹ tiến hành hoạt động trong vùng biển quốc tế nhằm thực thi quyền tự do biển cả, đây được xem là quyền đương nhiên của bất kỳ quốc gia nào. (2) Các cuộc tập trận kết hợp với Philippines, Nhật Bản, Australia… là để củng cố mối quan hệ liên minh quân sự với các nước đồng minh, nhất là với Philippines và Nhật Bản. (3) Tính chất và mức độ tiến hành các hoạt động quân sự đều nằm trong khuôn khổ an toàn, an ninh biển không đe dọa đến lợi ích của quốc gia khác. Dù cho Trung Quốc luôn bày tỏ quan ngại về sự xuất hiện thường xuyên của Mỹ ở Biển Đông sẽ làm căng thẳng thêm tình hình và mang tính chất đối đầu với quốc gia này. Tuy nhiên, đó chỉ là nhận định từ một phía Trung Quốc và không có cơ sở xác đáng cho lập luận này.

Hoạt động quân sự của Nhật Bản ở Biển Đông

Nhật Bản là quốc gia có lợi ích kinh tế gắn bó mật thiết với vùng biển này, 80% dầu thô của nước này đi qua Biển Đông quyết định sống còn đối với nền kinh tế nước Nhật Bản. Do đó, cũng như Mỹ, Nhật Bản cũng quan tâm đến những lợi ích của mình ở Biển Đông.

Quan điểm, lập trường của Nhật Bản liên quan vấn đề Biển Đông

Quan điểm và mục tiêu xuyên suốt của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông là duy trì hòa bình, đảm bảo an ninh và tự do hàng hải quốc tế, trên nguyên tắc mọi bất đồng tranh chấp chủ quyền và tranh chấp biển phải được giải quyết dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và luật biển quốc tế bằng các biện pháp hòa bình. Mục tiêu quan trọng của Nhật Bản khi can dự vào vấn đề Biển Đông là tăng cường sự ảnh hưởng của nước này tại khu vực Biển Đông, tích cực can dự đối với cục diện an ninh khu vực, xây dựng hình ảnh nước lớn ở khu vực. Về chính thống, Nhật Bản luôn tuyên bố không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ và vùng biển; Nhật Bản chủ trương các tranh chấp phải giải quyết một cách hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng trật tự toàn cầu dựa trên luật pháp; Nhật Bản cũng lo việc đảm bảo một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương (trong đó bao gồm Biển Đông) tự do và mở, các nước tôn trọng tự do hàng hải và hàng không, thương mại biển không bị cản trở ảnh hưởng đến thịnh vượng của Nhật Bản; Nhật Bản giúp nâng cao năng lực tuần tra hàng hải cho một số nước liên quan tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Nhật Bản đã thể hiện vai trò quan trọng, tích cực thúc đẩy các biên liên quan giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, cụ thể: (1) Sau khi Tòa án trọng tài thường trực quốc tế (PCA) ra phán quyết về vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc liên quan tới tranh chấp ở Biển Đông, Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida tuyên bố phán quyết của PCA là phán quyết cuối cùng và mang tính ràng buộc pháp lý; các bên liên quan phải tuân thủ phán quyết này. Ngoại trưởng Kishida nêu rõ Nhật Bản kiên định ủng hộ việc tôn trọng quy định luật pháp và sử dụng các biện pháp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong giải quyết các tranh chấp trên biển. (2) Sách Trắng quốc phòng Nhật Bản năm 2016 đã nêu rõ các hoạt động hiện tại của Trung Quốc tại Biển Đông là bá quyền, đơn phương, hướng tới việc đặt các nước vào việc đã rồi trên vùng biển đang có tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán. (3) Trong những chuyến thăm đến các nước ASEAN, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đều đưa vấn đề tự do hàng hải, hàng không cũng như tình hình an ninh Biển Đông ra thảo luận. Nhật Bản đã tích cực đưa vấn đề Biển Đông ra các diễn đàn đa phương mà ASEAN là trung tâm như ARF, ADMM+, Diễn đàn Đông Á (EAS). Cơ sở để Nhật Bản đưa vào chương trình thảo luận tại các diễn đàn đa phương này là khái niệm an ninh biển, nhấn mạnh tầm quan trọng của giải quyết tranh chấp trên biển một cách hòa bình và đảm bảo tự do hàng hải hàng không dựa trên cơ sở của luật pháp quốc tế. (4) Tại Đối thoại Shangrila 13 năm 2014, Thủ tướng Nhật Bản Abe đã nhấn mạnh đến ba nguyên tắc của luật biển: Các quốc gia giải thích yêu sách dựa trên luật pháp quốc tế; các quốc gia không sử dụng vũ lực hay biện pháp cưỡng bức nhằm đạt được yêu sách; các quốc gia sẽ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình. (5) Trong Tuyên bố Chung sau cuộc đối thoại giữa hai Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Ngoại giao của Nhật Bản và Mỹ (2+2) vào tháng 7/2017, Nhật Bản đã đưa ra sáng kiến “Chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” bao gồm cả khu vực Biển Đông lẫn khu vực Ấn Độ Dương. Sáng kiến này của Nhật thể hiện việc Nhật muốn các nước lớn khác đều phải có trách nhiệm về sự tự do, rộng mở tại các vùng biển khu vực tuân theo luật pháp quốc tế.

Chiến lược an ninh của Nhật Bản thể hiện qua những mục tiêu mà nước này đề ra như sau: (1) Hỗ trợ việc tăng cường khả năng khu vực:Nhật Bản có thể giúp cải thiện những khả năng biển của các nước trong khu vực Biển Đông, với ưu tiên cao nhất là xây dựng thúc đẩy năng lực hoạt động trên biển cho các quốc gia này, trong đó tăng cường năng lực hải quân và bảo vệ bờ biển đang là ưu tiên cao nhất. Nhật Bản đã khởi xướng, và năm 2015 đã bắt đầu thực hiện, một số chương trình xây dựng khả năng cho các quốc gia ven biển ở Đông Nam Á, đặc biệt là Philippines và ViệtNam; (2) Ủng hộ chiến lược của Mỹ và duy trì sự hiện diện của Mỹ – Hỗ trợ Mỹ thực hiện tự do hàng hải, là thành phần cốt lõi của chiến lược an ninh của Nhật Bản. Vì là đồng minh nên Nhật Bản phải thực hiện mục tiêu chiến lược này. Hơn hết, Mỹ có khả năng kiềm chế đối trọng với mối đe dọa đến từ Trung Quốc. (3) Tăng cường hợp tác với các quốc gia khu vực và ngăn chặn việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo trên bãi cạn Scarborough; Thúc đẩy hơn nữa các cuộc diễn tập song phương và đa phương với quân đội các nước Đông Nam Á ven biển. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Nhật Bản đã bắt đầu có các cuộc trao đổi quân sự với các quốc gia của khu vực Biển Đông, và nhìn chung các mối quan hệ của Nhật Bản với các nước này rất tốt. Các quốc gia này bao gồm Australia, Indonesia, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Brunei, Philippines và Việt Nam.

Đánh giá về hoạt động quân sự của Nhật Bản tại Biển Đông

Nhật Bản tăng cường hiện diện quân sự ở Biển Đông thông qua việc tổ chức tập trận với các nước ven Biển Đông; thúc đẩy các hợp đồng mua bán vũ khí, viện trợ tàu chiến cho các nước tồn tại tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên Biển Đông; ủng hộ và tham gia kế hoạch tuần tra đảm bảo tự do hàng hải, hàng không của Mỹ; tăng cường các hoạt động giao lưu quân sự với các nước trong khu vực…

Nhìn chung, các hoạt động của Nhật Bản tại Biển Đông đều có sự liên kết, phối hợp với Mỹ và các nước đồng minh. Xét trên phương diện pháp lý quốc tế thì hành động của Nhật Bản là phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế.

Hoạt động quân sự của Mỹ và Nhật Bản tác động đối với tình hình Biển Đông:

Về mặt tích cực: (1) Biển Đông vốn tồn tại như một con đường giao thông huyết mạch, do đó, duy trì hoạt động quân sự trong khu vực này là bảo vệ lợi ích chính đáng, hiển nhiên của Mỹ và Nhật Bản cũng như các quốc gia khác có tuyến đường hàng hải đi qua Biển Đông. (2) Vì có lợi ích quốc gia ở Biển Đông, nên cả Mỹ và Nhật Bản có thể hỗ trợ hợp tác với các quốc gia trong tranh chấp để trở thành bên trung lập giúp thúc đẩy quá trình giải quyết các tranh chấp một cách công bằng và hòa bình. (3) Hoạt động quân sự của hai quốc gia này, đặc biệt là Mỹ, có khả năng tạo được sự cân bằng sức mạnh quân sự ở Biển Đông, bởi vì Mỹ là cường quốc quân sự có đủ khả năng kiềm chế đối trọng sự trỗi dậy ngày càng lớn mạnh của quân đội Trung Quốc. (4) Với vị thế là hai quốc gia hàng đầu thế giới, Mỹ và Nhật Bản có thể hỗ trợ giúp đỡ các nước trong khu vực bảo vệ lợi ích chính đáng trên biển thông qua việc hỗ trợ trang thiết bị, tiền, kinh nghiệm.

Về mặt tiêu cực: (1) Mỹ và Nhật Bản tăng cường hiện diện ở Biển Đông có thể sẽ khiến tình hình trong khu vực trở nên căng thẳng, các quốc gia trong khu vực rất quan ngại khi có sự xuất hiện thường xuyên của các cường quốc quân sự. Chính vì thế, sự có mặt này làm gia tăng nguy cơ chạy đua vũ trang, không ngừng hiện đại hóa quân sự để sẵn sàng đáp trả lại hành vi đe dọa đến lợi ích của quốc gia mình. (2) Việc liên minh quân sự riêng của Mỹ hoặc Nhật Bản đối với bất kỳ quốc gia nào trong khu vực cũng tìm ẩn nguy cơ gây chia rẽ mất đoàn kết. Khối các quốc gia trong khu vực Biển Đông có nguy cơ chia thành hai nhóm, một nhóm thì chấp nhận liên minh quân sự với Mỹ hoặc Nhật Bản và một nhóm còn lại là các quốc gia không chấp nhận liên minh quân sự với Mỹ hoặc Nhật Bản hay với bất kỳ quốc gia nào khác. Vô hình trung, một số quốc gia trong tranh chấp sẽ trở nên yếu thế hơn nếu như quốc gia đang có tranh chấp với mình liên minh với một quốc gia khác để gia tăng sức mạnh quânsự. (3) Việc các quốc gia này đẩy mạnh việc mua bán vũ khí tuy nhằm đạt được mục tiêu kinh tế nhưng chính nó cũng tiềm ẩn khả năng gây bất ổn khu vực, rất dễ rơi vào tình trạng chạy đua vũ trang gây đe dọa đến an ninh khu vực và thếgiới.

RELATED ARTICLES

Tin mới