Thursday, November 14, 2024
Trang chủSự thật Trung Hoa“Đường lưỡi bò” và trò lừa bịp của TQ trên Biển Đông

“Đường lưỡi bò” và trò lừa bịp của TQ trên Biển Đông

Biển Đông là một biển rìa lục địa, một phần của Thái Bình Dương, kéo dài từ Singaporeo tới eo biển Đài Loan được bao bọc bởi 9 quốc gia và một vùng lãnh thổ) với diện tích khoảng 3.500.000km2… Trong Biển Đông có rất nhiều đảo, tập hợp thành một số quần đảo; trong đó, có hai quần đảo lớn là Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Do có vị trí chiến lược về an ninh, quốc phòng và phát triển kinh tế nên vùng biển này trở thành mục tiêu tranh chấp chủ quyền của nhiều quốc gia xung quanh.

Trung Quốc (7/5/2009) ngang nhiên gửi Công hàm gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc phản đối Việt Nam và Malaysia nộp Báo cáo quốc gia về ranh giới ngoài thềm lục địa cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa, trong đống hồ sơ của Trung Quốc có kèm bản đồ thể hiện đường yêu sách 9 đoạn trên Biển Đông. Theo Công hàm của Trung Quốc thì “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và các vùng nước kế cận, có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất đáy biển ở đó”.    

Về nguồn gốc của “đường lưỡi bò” trên Biển Đông: “Đường đứt khúc”, “đường chữ U” hoặc còn gọi bằng cái tên khác là “đường lưỡi bò” – đơn giản là nhìn trên bản đồ, nó giống hình lưỡi con bò liếm xuống Biển Đông. Nguồn gốc của “đường chữ U” ngày nay bắt nguồn từ những hoạt động của Ủy ban Điều tra Bản đồ Đất và Biển nước Trung Hoa dân quốc (ROC) thành lập năm 1933. Nhiệm vụ của Ủy ban này bao gồm việc khảo sát và đặt tên cho các đảo ở Biển Đông và xuất bản các bản đồ thể hiện các đảo này thuộc “lãnh thổ” của Trung Quốc. Bản đồ chính thức đầu tiên thể hiện “đường đứt đoạn” có nguồn gốc từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Bản đồ này được Vụ Biên giới và Lãnh thổ, Bộ Nội vụ ROC xuất bản tháng 12/1946. Trong bản đồ này, “đường chữ U” bao gồm 11 nét đứt bao trùm phần lớn Biển Đông và các đảo ở khu vực này. Bắt đầu từ đường biên giới Việt – Trung, hai nét đầu tiên đi qua Vịnh Bắc Bộ. Nét thứ 3 và thứ 4 lần lượt tách bờ biển Việt Nam ra khỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nét thứ 5 và 6 đi qua Bãi James Shoal (4o Bắc), bãi ở cực Nam đường yêu sách của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) và Đài Loan. Đi theo hướng Nam – Đông, hai nét đứt tiếp theo một mặt nằm giữa Trường Sa và mặt khác giữa Borneo (Indonesia, Malaysia và Brunei) và Philippines (tỉnh Palawan). Nét thứ 9, 10,11 tách biệt Philippines với ROC. Sau khi đánh đuổi Quốc Dân đảng ra khỏi đại lục, Trung Quốc mới thành lập đã tiếp tục chính sách của các Chính phủ Trung Quốc trước đó, minh họa các nét đứt tương tự đã xuất hiện trên các bản đồ của ROC. Từ đó trở đi, cả Trung Quốc và Đài Loan đều bảo vệ “đường chữ U”. Tuy nhiên, từ năm 1953, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã phê chuẩn việc bỏ 2 đoạn đứt khúc trong vịnh Bắc Bộ. Như vậy, bản đồ “đường lưỡi bò” do Trung Quốc xuất bản từ giai đoạn này chỉ còn có 9 đoạn; trong đó, có nhiều đoạn của đường yêu sách này được vẽ sát bờ biển Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines; trong đó, có đoạn chỉ cách bờ biển Việt Nam 50-100km…

Đầu năm 2013, cơ quan Đo đạc bản đồ và Thông tin địa chất quốc gia Trung Quốc cho công bố bản đồ “đường lưỡi bò” gồm 10 đoạn và khẳng định lần đầu tiên Trung Quốc đã thể hiện rõ các đảo ở Biển Đông trên tấm bản đồ này, nhưng không hề giải thích lý do tại sao “đường lưỡi bò” từ 9 đoạn thành 10 đoạn.

Một số cách biện minh vô lý của giới chuyên gia Trung Quốc về “đường lưỡi bò”

Giáo sư Gao Zhiguo, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển biển, Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc cho rằng đường này yêu sách hữu các đảo nằm bên trong hơn là một đường biên giới biển. Ông nhận xét: “Nghiên cứu kỹ các tài liệu Trung Quốc cho thấy Trung Quốc chưa bao giờ yêu sách toàn bộ cột nước của Biển Nam Trung Hoa mà chỉ có các đảo và vùng nước xung quanh các đảo nằm trong đường này”.

Pan Shiying (Phan Thạch Anh) cho rằng con đường này đã tồn tại một nửa thế kỷ nay, không quốc gia nào phản đối và vì vậy, đã tạo ra một danh nghĩa lịch sử cho Trung Quốc, là con đường biên giới quốc gia. Trung Quốc yêu sách chủ quyền không chỉ các đảo, đá của bốn quần đảo Đông Sa, Tây Sa (Hoàng Sa), Trung Sa (bãi ngầm Macclefield) và 6 Sa (Trường Sa) mà toàn bộ vùng nước trong “đường chữ U” đó. Theo ông, “Chính phủ Trung Quốc thông qua việc ấn bản các bản đồ này muốn gửi ba thông điệp tới cộng đồng quốc tế: (1) Khu vực nằm trong đường biên giới này là các đảo, đá và các vùng nước kế cận của chúng đã thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trong lịch sử. (2) Phù hợp với các công ước quốc tế, vị trí và hướng đi của con “đường đứt khúc 11 đoạn” này (sau thay bằng chín đoạn) đã được vạch theo cách gần như là đường cách đều giữa rìa ngoài của bốn quần đảo trong Biển Nam Trung Hoa với đường bờ biển của các quốc gia kế cận. Điều này đã và đang là hợp pháp vào thời gian đó củ chiếm cứ, chiếm hữu và quản lý. (3) Thực tiễn sử dụng các đường đứt khúc hơn là một đường liên tục để đánh dấu một số các khu vực chủ chốt đã chỉ ra thực chất của việc “chưa dứt điểm”, để lại khả năng đưa ra những điều chỉnh cần thiết trong tương lai”. Nói cách khác, vùng nước do con đường này bao bọc là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của Trung Quốc. Con đường này chỉ là hình thức, còn danh nghĩa lịch sử của Trung Quốc trên vùng biển này mới là nội dung.

Zou Keyuan cho rằng yêu sách của Trung Quốc không nên xem như yêu sách vùng nước lịch sử theo nghĩa truyền thống mà giống như một dạng yêu sách các quyền chủ quyền và quyền tài phán lịch sử chứ không phải là yêu sách chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối. Nói cách khác, đây là sự ngụy biện liên hệ “đường lưỡi bò” với các khái niệm quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của luật biển hiện đại.

Rõ ràng nguồn gốc và ý nghĩa của “đường lưỡi bò” này hoàn toàn mập mờ, không chính xác đến nỗi bản thân các học giả Trung Quốc củng không thống nhất được một giải thích hợp lý nào. Yenn Huei Song còn cho rằng “không có cơ sở nào trong luật quốc tế cho yêu sách lịch sử đó”.

Âm mưu của Trung Quốc đối với “đường lưỡi bò”

Vùng nước lịch sử: Một số người Trung Quốc đã cho rằng khái niệm “vùng nước lịch sử” cho phép chính phủ xác nhận hợp pháp quyền kiểm soát rộng lớn đối với vùng Biển Đông. Khái niệm này là một biến thể của yêu sách đòi chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông rằng “đường chín đoạn” đó thể hiện một sự xác nhận đối với vùng nước lịch sử, hoặc “quyền sở hữu” lịch sử, hoặc ít nhất là một số loại đặc quyền lịch sử để quản lý vùng biển và lãnh hải trong địa giới của đường kẻ đó. Có lẽ, tuyên bố có thẩm quyền nhất của pháp luật quốc tế về vấn đề này được ban hành vào năm 1951 bởi Tòa án Công lý quốc tế trong Vụ kiện về việc đánh bắt cá, trong đó có Vương quốc Anh đã không thừa nhận tuyên bố của Tòa án Công lý quốc tế Na Uy về chủ quyền trên vùng biển dọc theo bờ biển hiểm trở của nước này vượt ra ngoài giới hạn ba dặm lãnh hải truyền thống tại thời điểm đó. Tòa xem xét ba yếu tố liên quan sau: (1) Sự phụ thuộc liền kề về địa lý của các lãnh hải đối với lãnh thổ đất liền – các phần tương ứng của bờ biển Na Uy bị lõm sâu với những đặc điểm địa lý phức tạp và ước tính khoảng 120,000 hòn đảo phụ, đảo nhỏ, bãi đá và bãi cát; (2) Các mối liên hệ gần gũi một cách đầy đủ giữa cấu tạo đất liền và không gian biển để tạo cho khu vực có chế độ cai quản chủ quyền đầy đủ; (3) Lợi ích kinh tế duy nhất thuộc các quốc gia ven biển dựa trên bằng chứng rõ ràng của việc sử dụng lâu dài. Dựa trên đánh giá của mình về những yếu tố này, tòa chấp nhận mở rộng chủ quyền của Na Uy đối với các vùng biển và các đặc tính bao hàm dựa trên các tuyên bố lịch sử của nước này. Những yêu cầu đặt ra trong Vụ kiện đánh bắt cá đối với việc mở rộng chủ quyền của một quốc gia ven biển đối với không gian biển rõ ràng không hỗ trợ cho tuyên bố của Trung Quốc. Đặc biệt là không có sự phụ thuộc về địa lý chặt chẽ giữa biển và đất liền ở khu vực này. Quả thực, các đặc tính đất liền không quan trọng nên từ lâu đã được xem như là mối nguy hiểm về hàng hải hơn là một khu vực khai thác. Ngoài ra, chính các đảo nhỏ cũng phân tán tương đối rộng rãi so với các đặc tính đất liền ở dọc theo bờ biển Na Uy. Như vậy, việc thiếu đất liền vững chắc để tạo cơ hội cho cư dân và thương nhân đã cho thấy rằng khu vực này là không có được một quy chế quản lý đầy đủ chủ quyền. Theo đó, yêu cầu của Trung Quốc đối với vùng nước lịch sử chỉ nhận sự ủng hộ yếu ớt dựa trên các cơ sở này.

Liên quan đến vấn đề lợi ích kinh tế duy nhất, Trung Quốc đã có đầy đủ bằng chứng về sự tiếp xúc của ngư dân, thương nhân và quan chức chính phủ với các đảo của Biển Đông trong nhiều thế kỷ, nhưng ghi chép lịch sử cũng phản ánh rằng Việt Nam cũng có những tài liệu tương tự về sự tiếp xúc với các đảo này và cả hai nước đều không có một hồ sơ về sự việc sử dụng thường xuyên, độc quyền, và sự phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên Biển Đông. Những người dân Philippines, Malaysia, Indonesia cũng duy trì sự tiếp xúc với các hòn đảo này trong việc hỗ trợ các hoạt động đánh bắt cá truyền thống và hỗ trợ thương mại địa phương. Vì vậy, không có bằng chứng ủng hộ cho bất kỳ lợi ích kinh tế duy nhất nào của Trung Quốc, hoặc bất kỳ quốc gia đơn lẻ nào trong và xung quanh các đảo của Biển Đông. Hơn nữa, bằng chứng đã chứng minh điều ngược lại – rằng các vùng biển ở Biển Đông và hải đảo rải rác, đảo nhỏ, bãi đá và bãi san hô trong vùng biển này trong nhiều thế kỷ qua chính là khu vực đánh cá chung và các tuyến đường kinh doanh của tất cả cư dân trong khu vực. Thật vậy, việc sử dụng chung lâu dài này cho thấy rằng thay vì được giám sát như là một khu vực có chủ quyền, Biển Đông đã phát triển như là một khu vực sở hữu chung trong đó tất cả các bên theo đuổi lợi ích của mình mà không sợ bị quấy rối bởi các cơ quan chức năng của các quốc gia ven biển khác.

Tuyên bố chủ quyền đối với đảo: Một số học giả và các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc xem “đường chữ U” như một sự tuyên bố xác nhận chủ quyền trên tất cả các đảo, bãi đá, cồn cát, san hô và thuộc tính đất khác khắp vùng biển của Biển Đông, và đối với bất cứ điểm đất liền nào, và cho đến giới hạn mà luật biển quốc tế cho phép các quốc gia ven biển được yêu sách dựa trên chủ quyền đối với các hòn đảo với kích thước nhỏ bé này. Ít nhất ở bề ngoài, tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền đối các đảo và phạm vi quyền tài phán bắt nguồn từ luật này là hợp pháp bởi vì chúng tuân thủ những quy định chung của UNCLOS và các khía cạnh khác của Luật Biển. Tuy nhiên, một loạt các vấn đề cơ bản làm suy yếu những yêu sách của Trung Quốc, bao gồm một thực tế là Việt Nam, Malaysia, Philippines và Đài Loan đều tuyên bố xác lập chủ quyền đối với một vài hoặc tất cả các đảo ở Biển Đông. Từ sự cố Mischief Reef (Đá Vành Khăn) năm 1995 giữa Trung Quốc và Philippines, các bên nguyên đơn đều trong trạng thái tĩnh, mỗi bên chiếm một số điểm.

Tất nhiên, Trung Quốc cũng chiếm giữ và quản lý toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, mặc dù Việt Nam vẫn duy trì việc tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này. Trường Sa là một trường hợp phức tạp ở nhiều khía cạnh. Từ năm 1996, Việt Nam đã chiếm đóng hoặc kiểm soát khoảng 22 điểm, Trung Quốc 10 điểm, Philipines 8 điểm, Malaysia 4 điểm và Đài Loan 1 điểm. Để hỗ trợ cho một tuyên bố chủ quyền đối một hòn đảo, luật pháp quốc tế đòi hỏi một quốc gia ven biển phải chứng minh được sự chiếm đóng có hiệu quả hoặc sự quản lý và kiểm soát liên tục. Trên cơ sở đó, tuyên bố của Trung Quốc rằng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa mà nước này không hề chiếm đóng hoặc quản lý và kiểm soát một cách có hiệu quả đã không được luật pháp quốc tế hỗ trợ. Điều tương tự cũng đúng với những tuyên bố của các bên khác về chủ quyền đối với một điểm nào đó mà họ không thực sự chiếm đóng. Một số nhà quan sát kết luận sai rằng những tuyên bố của các nước châu Âu từ thời thuộc địa. Trong thực tế, những tuyên bố của các quốc gia Đông Nam Á ít nhất phần nào đó biểu hiện được sự liên hệ của cư dân ven biển với các đảo và vùng biển trên Biển Đông trong nhiều thế kỷ và nhận thức quốc gia rằng luật pháp quốc tế cần phải bảo vệ những lợi ích đó.

Lợi ích an ninh: Trung Quốc cho rằng đường kẻ hình chữ U phản ánh lợi ích an ninh hàng hải lâu dài của Trung Quốc ở Biển Đông và rằng những lợi ích an ninh này phải được pháp luật bảo vệ. Người Trung Quốc từ lâu đã xem Vịnh Bột Hải, Hoàng Hải, Biển Hoa Đông, và Nam Hải (Biển Đông) là cái được gọi là “các vùng biển gần”-như những khu vực lợi ích chiến lược cốt yếu và một phần của một chu vi phòng thủ tuyệt vời được thành lập trên đất và trên biển để bảo vệ phần đông dân số Trung Quốc và các trung tâm kinh tế dọc theo bờ biển. Một Thiếu tướng Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc gần đây đã nói rằng, Biển Đông bao gồm một phần “vành đai ổn định chiến lược” của hàng hải Trung Quốc.

Sự quả quyết của Trung Quốc về yêu sách đối với các vùng nước trong “các vùng biển gần” của nước này đã phát triển song song với quy mô của lực lượng hải quân và dịch vụ hàng hải của họ và từ chính các lực lượng này. Theo như một nhà phân tích Trung Quốc, “Hải quân chỉ là một trong những phương tiện bảo vệ quyền và lợi ích hành hải của chúng tôi… phương tiện chính là dựa vào pháp luật, luật pháp quốc tế và luật trong nước.” Để thực thi các luật này và lợi ích chủ quyền của chúng tôi trên biển, “trong những năm gần đây, chúng tôi đã bắt đầu tiến hành tuần tra định kỳ để bảo vệ quyền của chúng tôi ở ở Biển Hoa Đông và Nam Hải (Biển Đông)”. Như vậy, một số người Trung Quốc nhận thấy luật pháp quốc tế kết hợp với sức mạnh hàng hải đang phát triển như một phương tiện để thiết lập vùng đệm an ninh biển được mong muốn từ lâu đối với toàn bộ ”vùng biển gần”, bao gồm cả Biển Đông. Việc luật pháp quốc tế không bảo vệ lợi ích an ninh của một quốc gia ven biển nằm ngoài khu vực lãnh hải chật hẹp đã không ngăn cản những người ủng hộ Trung Quốc tìm cách thay đổi các quy tắc đó.

Về cơ sở pháp lý, lịch sử, thực tiễn của cái gọi là biên giới trên biển của Trung Quốc:

Công hàm ngày 7/5/2009 là văn bản đầu tiên, thể hiện quan điểm chính thức của Trung Quốc về yêu sách đường 9 đoạn (nay là 10 đoạn) và cũng là lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố đường yêu sách này với các quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Với công bố này, Trung Quốc yêu sách cộng đồng quốc tế phải thừa nhận tính chất “lịch sử của đường lưỡi bò”, coi Biển Đông như một “vịnh lịch sử” của Trung Quốc; “đường lưỡi bò” được hiểu như đường biên giới trên biển của Trung Quốc và như thế Trung Quốc sẽ độc chiếm 80% diện tích của Biển Đông và Biển Đông trở thành vùng nước “nội thủy” của Trung Quốc. Tuy nhiên, hành động của Trung Quốc đã bị Việt Nam và cộng đồng quốc tế bác bỏ, coi “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc đã thể hiện trên sơ đồ là không có giá trị vì không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn.

Thứ nhất, không thể coi “đường lưỡi bò” là đường biên giới trên biển của Trung Quốc; bởi vì, theo nhiều án lệ quốc tế thì đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là sự ổn định và dứt khoát; trong khi đó, “đường lưỡi bò” lại không có tính ổn định và xác định… Đến nay, “đường lưỡi bò” vẫn chưa có tọa độ chính xác để có thể xác định một cách rõ ràng trên thực tế. Mặt khác, Trung Quốc đã phải tự bỏ đi 2 đoạn (từ 11 đoạn vào năm 1948, xuống còn 9 đoạn vào năm 1953), vì bản chất vô lý của nó. Một đường không có điểm cơ sở, không xác định cụ thể kinh độ, vĩ độ theo luật pháp quốc tế thì không thể gọi là đường biên giới quốc gia.

Thứ hai, càng không thể coi Biển Đông là “vịnh lịch sử của Trung Quốc”; bởi vì, theo Ủy ban Pháp luật quốc tế, một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử phải thỏa mãn tối thiểu 3 điều kiện: (1) Quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng nước được yêu sách. Trên thực tế, các văn kiện chính thức của nhà nước phong kiến Trung Quốc, như Đại Nguyên nhất thống chí (1294), Đại Minh nhất thống chí (1461), Đại Thanh nhất thống chí (1842) trước năm 1909 đều khẳng định “cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là Nhai huyện, đảo Hải Nam”. Các bản đồ lãnh thổ Trung Quốc của người Trung Quốc. Bản đồ lãnh thổ Trung Quốc của người nước ngoài cùng thời cũng vẽ và giải thích phù hợp với cách hiểu này của người Trung Quốc. Bản đồ Trung Quốc thế kỷ XVII của Peter de Goyer và Jacob de Keyzer thuộc Công ty Đông Ấn, Hà Lan cũng có lời giải thích rất rõ: “Nơi xa nhất của Trung Quốc bắt đầu từ phía Nam đảo Hải Nam ở 18 độ vĩ Bắc, rồi từ đó ngược lên phía bắc đến vĩ độ 42 độ”. Trung Quốc chỉ thực sự bước chân lên quần đảo Hoàng Sa năm 1909 khi quần đảo này đã thuộc Việt Nam, không còn là đất vô chủ. Về Trường Sa, cho tới tận năm 1932, Công hàm ngày 29 tháng 9 năm 1932 của Phái đoàn Ngoại giao Trung Hoa dân quốc tại Paris vẫn còn khẳng định các nhóm đảo “Amphitrite” (Lưỡi Liềm) và “Croissant” (An Vĩnh) của quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) “tạo thành phần lãnh thổ Trung Quốc nằm tận cùng ở phía Nam”. Trung Quốc đã không đưa ra được bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách liên tục, hòa bình từ thời xa xưa. Các sách Hán văn cổ đều ghi nhận các hoạt động của dân đánh cá và dân buôn Ả Rập, Ấn Độ, Ma-lay, Việt, và vùng Vịnh trong vùng biển này, không có một bằng chứng nào cho thấy Biển Đông hoàn toàn là “ao hồ Trung Quốc”. Các chính quyền phong kiến Trung Quốc cũng không thiết lập hoặc duy trì có lợi cho họ một sự độc tôn nào trong vùng biển này, khả dĩ có thể loại bỏ hoạt động khai thác của các Đội Hoàng Sa và Bắc Hải của triều Nguyễn. Ngược lại còn có những hành động thừa nhận tính hợp pháp của các hoạt động đó như trường hợp năm 1774: quan huyện Văn Xương giúp đội viên Đội Hoàng Sa khi đi làm nhiệm vụ bị bão dạt vào đất Trung Quốc. “Đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc không phải là một con đường có tính ổn định và xác định. Từ 11 đoạn, nó đã phải bỏ đi hai đoạn trong Vịnh Bắc Bộ vì quá vô lý. Tính chất không liên tục của đường này được các tác giả Trung Quốc giải thích để cho “những điều chỉnh cần thiết trong tương lai”. Một con đường như vậy rõ ràng không thể nào lại được coi là “biên giới quốc gia” theo luật pháp quốc tế. Đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là tính ổn định và dứt khoát. Trong một xã hội có trật tự riêng, các đường biên giới là một trong số các thể chế ổn định nhất từ tất cả các thể chế. Vậy mà ở đây đến cả người Trung Quốc, tác giả của đường này, còn chưa biết nó đi thế nào, thì sao có thể gọi đó là biên giới quốc gia được? (2) Sự liên tục của việc thực thi quyền lực đó theo thời gian; (3) Quan điểm của các quốc gia khác đối với yêu sách đó. Ngoài ra, một quốc gia yêu sách danh nghĩa lịch sử phải có trách nhiệm đưa ra bằng chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này. Cả trên phương diện pháp lý, lịch sử và thực tiễn, Trung Quốc đã không đưa ra được bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách thực sự, liên tục, hòa bình… Các chính quyền Trung Quốc cũng không thiết lập hoặc duy trì sự quản lý độc tôn nào trong vùng biển này. Mặc dù trước đó, đường yêu sách này đã được thể hiện nhiều lần trên bản đồ Trung Quốc, nhưng Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chưa bao giờ có một tuyên bố chính thức nào về “đường lưỡi bò” của mình; thậm chí, trong những văn bản pháp lý quan trọng của Trung Quốc về các vùng biển (Tuyên bố về Lãnh hải 1958, Luật về Lãnh hải và vùng tiếp giáp 1992, Tuyên bố về đường cơ sở 1996; về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 1998) đều không hề nhắc đến đường yêu sách này. Có thể khẳng định, từ khi xuất bản bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò” trên Biển Đông cho đến trước ngày 7/5/2009 thì cả chính quyền Trung Hoa dân quốc cũng như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đều chưa bao giờ chính thức yêu sách hay có lời giải thích gì về “đường lưỡi bò”. Vì vậy, các quốc gia khác đã không lên tiếng phản đối vấn đề này là lẽ đương nhiên. Sự im lặng này không được coi là “mặc nhiên thừa nhận”. Mặt khác, năm 1951, tại Hội nghị San Francisco, các nước tham dự đã bác đề nghị của Liên Xô (cũ) về việc trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa… Thực tế, tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và đòi hỏi của các nước khác trong vùng đối với một bộ phận của quần đảo Trường Sa đã chứng minh đường yêu sách của Trung Quốc chưa bao giờ có được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, về mặt lịch sử, Trung Quốc không thể khẳng định yêu sách “đường lưỡi bò” do chính họ tự vẽ ra từ năm 1947, với lý do không có ai phản đối.

Thứ ba, Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Từ lâu, quần đảo này đã thuộc chủ quyền của Việt Nam, không phải là lãnh thổ vô chủ. Hơn nữa, trong Công hàm ngày 29/9/1932 của phái đoàn ngoại giao Trung Hoa dân quốc tại Pa-ri khẳng định các nhóm đảo Lưỡi Liềm, An Vĩnh của quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa) “tạo thành lãnh thổ Trung Quốc nằm tận cùng ở phía Nam”. Như vậy, quần đảo Trường Sa chưa hề xuất hiện trên bản đồ chủ quyền của Trung Quốc. Lịch sử đã ghi nhận, các quốc gia trong khu vực vẫn tiến hành mọi hoạt động trên Biển Đông, như: Hàng hải, dầu khí, nghề cá… một cách bình thường mà không hề gặp phải sự ngăn cản nào của Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc không thể nói mình đã thực hiện chủ quyền thực sự một cách liên tục và hoà bình đối với Biển Đông từ năm 1947. “Đường lưỡi bò” được Trung Quốc thể hiện trên sơ đồ đính kèm Công hàm ngày 7/5/2009 cũng không thể mang lại cho Trung Quốc quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển nằm phía trong đường này theo quy chế vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Luật Biển 1982; bởi vì, bản chất tiến bộ của Công ước Luật Biển 1982 đã công nhận và mở rộng quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên gắn với lãnh thổ của mình; trong khi đó, “đường lưỡi bò” cách xa lục địa Trung Quốc hàng ngàn km… Rõ ràng, yêu sách của Trung Quốc không phù hợp các quy định của Công ước Luật Biển 1982. Theo luật pháp quốc tế, “đường yêu sách do Trung Quốc tự vẽ dựa theo bản đồ của một cá nhân là hoàn toàn không có cơ sở khoa học, không có giá trị pháp lý quốc tế và không ai có thể chấp nhận được và nội dung công hàm của phía Trung Quốc và bản đồ kèm theo công hàm đó đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông”.

Thứ tư, trong phán quyết của Toà Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển trong vụ kiện giữa Cộng hoà Philippines và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Tòa đã tuyên bố Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để đòi quyền lịch sử với các nguồn tài nguyên bên trong “đường lưỡi bò”. Tòa Trọng tài cho rằng trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong UNCLOS. Toà cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Toà kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong “đường 9 đoạn”. Theo Tòa Trọng tài, Trung Quốc đã gây ra những thiệt hại không thể khắc phục đối với hệ san hô ở quần đảo Trường Sa. Tòa khẳng định các tàu hành pháp Trung Quốc tạo ra nguy cơ xảy ra va chạm cao khi tiếp cận tàu Philippines. Phán quyết còn cho rằng Trung Quốc đã cản trở các quyền của ngư dân Philippines tại bãi cạn Scarborough bằng cách ngăn họ tiếp cận khu vực này. Ngoài ra, việc Trung Quốc cải tạo đất, xây dựng các đảo nhân tạo là không phù hợp với nghĩa vụ của một quốc gia trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Từ góc độ luật pháp quốc tế cũng như tình hình thực tế các hoạt động thực thi chủ quyền của các nước trên khu vực Biển Đông từ trước đến nay cho thấy, yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc là một yêu sách không có giá trị pháp lý quốc tế, không được các nước, và các học giả trên thế giới công nhận. Thậm chí yêu sách này còn bị chỉ trích mạnh mẽ vì tính phi lý và hão huyền của nó. Ngay sau khi Trung Quốc gửi công hàm phản đối Việt Nam và Malaysia, ngày 08/5/2009, Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc đã có Công hàm số 86/HC-2009 gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc bác bỏ công hàm và sở đồ nói trên. Cùng ngày, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam cũng đã trả lời phỏng vấn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và coi yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc thể hiện trên sơ đồ là “không có giá trị vì không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn”.

Trung Quốc, mặc dù là thành viên của Công ước Luật Biển 1982, nhưng khi các nước ASEAN đề cập đến việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông cần phải tuân thủ các quy định của Công ước, thì Trung Quốc cho rằng “Công ước Luật Biển 1982 là quan trọng, nhưng chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông còn quan trọng hơn”. Để yêu sách các vùng biển xung quanh các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc không chấp nhận các quy định của Công ước về quốc gia quần đảo (các Điều 46-54), theo nghĩa các quốc gia quần đảo có quyền xác định đường cơ sở quần đảo để từ đó xác định các vùng biển và thềm lục địa của nó, còn quần đảo của quốc gia lục địa không có các quyền đó. Như vậy, Trung Quốc đã tự mình không tôn trọng mình khi không tuân thủ mục 2 (1) Điều 1 của Công ước Luật Biển 1982. Bằng cách này, Trung Quốc đã tự tách mình ra khỏi luật pháp quốc tế về biển, đi ngược lại những gì Trung Quốc vẫn thường tuyên bố là “quốc gia có trách nhiệm” trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới.

Chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông trong thời gian qua không cho thấy khả năng đạt được một giải pháp công bằng có thể chấp nhận được giữa các bên tranh chấp trong tương lai gần. Hơn nữa, việc Trung Quốc muốn điều chỉnh trật tự luật pháp về biển đã được cộng đồng quốc tế dầy công xây dựng. Trong thời điểm hiện nay, cùng với tiềm lực kinh tế to lớn và sức mạnh quân sự của mình, những tham vọng làm chủ/khống chế Biển Đông của Trung Quốc tăng lên gấp nhiều lần, vị thế khăng khăng, không thỏa hiệp trong cuộc tranh chấp này đã làm tăng lên mối lo ngại của các nước Đông Nam Á.

Ngay sau thời điểm chính thức thể hiện yêu sách ở Biển Đông, Trung Quốc còn đẩy mạnh các hoạt động tuần tra kiểm soát, diễn tập quân sự… thể hiện hành vi quản lý Nhà nước trên thực tế trong phạm vi “đường lưỡi bò”. Các hoạt động đó đã vi phạm quyền chủ quyền của các nước khác.

Yêu sách về “đường lưỡi bò” của Trung Quốc không chỉ vi phạm quyền lợi của Việt Nam mà còn đụng chạm tới quyền lợi của hầu hết các quốc gia trong khu vực cũng như các quốc gia liên quan. Nếu yêu sách chiếm gần 80% toàn bộ Biển Đông được chấp nhận, tất cả tàu thuyền qua lại vùng biển này đều phải được sự cho phép của chính quyền Trung Quốc mới được phép lưu thông. Chưa kể tất cả tài nguyên trong vùng biển này từ tài nguyên sinh vật đến tài nguyên không sinh vật đều thuộc quyền kiểm soát của Trung Quốc. Quyền tự do lưu thông trên biển cả sẽ bị đe dọa nghiêm trọng, thương mại quốc tế qua vùng biển này sẽ bị Trung Quốc khống chế.

Những hành động và ý đồ như vậy của Trung Quốc đã gây thêm căng thẳng, đe dọa hòa bình và ổn định chung ở khu vực, đồng thời cũng không có lợi cho mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam kiên quyết bác bỏ yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý của Trung Quốc, khẳng định chủ quyền của mình trên các quần đảo Hoàng Sa và trường Sa, nhưng đồng thời luôn tỏ thiện chí trong việc cùng các nước và các bên liên quan hợp tác vì lợi ích của hòa bình, ổn định và phát triển của cả khu vực, phú hợp với thực tiễn và luật pháp quốc tế, cụ thể là Công ước Luật Biển 1982.

RELATED ARTICLES

Tin mới