Ngày 14/3/1988, Trung Quốc không chỉ cho binh lính lên đá Gạc Ma sát hại cán bộ chiến sỹ Việt Nam mà còn dùng pháo 100 ly, 37 ly 2 nòng xả đạn dã man sát hại gần hết số cán bộ chiến sỹ Việt Nam đang giữ đảo. Trong cuộc thảm sát phi nghĩa của Trung Quốc đã khiến 64 cán bộ chiến sỹ Việt Nam hy sinh, mãi nằm lại nơi vùng đất thiêng liêng của tổ quốc.
Tàu vận tải HQ 604 bị tàu chiến Trung Quốc nã pháo, bắn cháy, đang chìm xuống biển
Trung Quốc xả súng sát hại cán bộ, binh lính Việt Nam tay không tấc sắt
Trung Quốc đã có âm mưu đánh chiếm các đảo, đá của Việt Nam ở Biển Đông từ lâu. Việt Nam hiểu rõ điều này nên cố gắng cho cán bộ, binh lính lên đồn trú bảo vệ chủ quyền tại đá Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma. Đến tối 13/3/1988, trên đảo có 48 chiến sĩ công binh, chỉ mang theo xà beng, cuốc xẻng màkhông mang theo vũ khí. Ngoài ra, có 2 tàu cỡ 400 tấn mang số hiệu HQ 604 và HQ 605 là hai tàu chuyên chở các chiến sĩ công binh lên đảo. Đây chính là tàu Trung Quốc đã viện trợ cho ta trong chiến tranh chống Mỹ, chỉ làm nhiệm vụ vận tải, không có vũ khí tấn công. Trên tàu HQ 605 chỉ có súng AK (trang bị vũ khí nhẹ của bộ binh) và B40 tầm bắn 150m. Tương tự, tàu HQ 604 không có vũ khí gì đáng kể, mấy khẩu AK, một khẩu súng máy tầm bắn 300m, một khẩu súng chống tăng tầm bắn 150m. Ngoài ra, ta còn có tàu HQ 505 nguyên là tàu USS Bulloch County LST-509.
Trong khi đó, Trung Quốc chiếm ưu thế hoàn toàn về lực lượng với 3 tàu chiến chuyên dụng. Ba tàu của Trung Quốc là tàu khu trục, gồm tàu khu trục 502 nặng 1.400 tấn, trang bị 3 pháo 100 mm và 8 pháo 37mm, tàu khu trục nặng 1.925 tấn, trang bị 4 pháo 100 mm và 2 pháo 37mm, tàu khu trục 531 nặng 1.925 tấn, trang bị 4 pháo 100 mm và 8 pháo 37mm. Cả 3 tàu chiến chuyên dụng được trang bị đầy đủ hỏa lực đại bác cỡ lớn, có thể bắn vào mục tiêu từ tầm xa trên 10km.
Khi lính Trung Quốc đổ bộ thấy cờ Việt Nam cắm ở đó thì xông đến để nhổ cờ, dập xuống nước. Anh em chiến sĩ ta cố sức bảo vệ lá quốc kỳ nên xảy ra xô xát bằng dao găm. Ngay lập tức, lính Trung Quốc đứng đó không xa dùng tiểu liên bắn quét tất cả 48 anh em chiến sĩ trên đảo. Tàu chiến Trung Quốc cũng đã nã pháo bắn chìm luôn hai tàu HQ 604 và HQ 605 của Việt Nam, làm 16 cán bộ và chiến sĩ trên tàu hi sinh. Còn một số anh em kịp lên các xuồng cao su sau đó được Bộ Tư lệnh hải quân cử tàu mang cờ chữ thập đỏ đến cứu.
Đáng chú ý, trong suốt quá trình xung đột, Hải quân Việt Nam chưa hề bắn phát súng nào đáp trả, chỉ cố gắng bảo vệ hòa bình và chủ quyền của dân tộc, chỉ có Trung Quốc dùng súng thảm sát cán bộ, binh lính Việt Nam nhằm xâm chiếm hải đảo của Việt Nam. Kết quả 64 chiến sĩ hy sinh dưới họng súng của phía xâm lược. Cách thức hành động là tàu Trung Quốc đứng từ xa nã đạn pháo vào tàu Việt Nam để hỗ trợ cho binh lính Trung Quốc dùng xuồng đổ quân lên chiếm Gạc Ma – nơi có một tổ cắm cờ 5 người cùng 20 chiến sĩ công binh Việt Nam đang làm nhiệm vụ xây dựng trên bãi đá. Cái gọi là “trận đánh” chẳng qua chỉ là sự điên cuồng nhả đạn đủ loại trọng liên 12,7mm, pháo 37mm, pháo 76,2mm, pháo 100mm, rocket 12 nòng của hải quân Trung Quốc, bắn vào tàu HQ-604 và binh lính Việt Nam trên đá Gạc Ma – họ gần như tay không bảo vệ lá cờ đỏ sao vàng.
Mặt khác, với tổn thất to lớn chỉ trong khoảng một giờ của ngày 14/3/1988 ở Gạc Ma, có thể coi đó là cuộc thảm sát của Hải quân một quốc gia lớn có đủ phương tiện và vũ khí hiện đại trong tay, nhằm chiếm đoạt một thực thể địa lý có chủ quyền của nước láng giềng, cướp đoạt cuộc sống của những thần dân đang thực thi chủ quyền trên vùng biển thiêng liêng của đất nước họ.
Trung Quốc đã vi phạm các quy định của luật quốc tế
Việc Trung Quốc dùng súng thảm sát cán bộ, binh lính Việt Nam ở đá Gạc Ma năm 1988 là vi phạm các quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Luật Nhân đạo quốc tế, Công ước Genève về đối xử nhân đạo với tù binh, hàng binh chiến tranh…
Đầu tiên, hành động thảm sát cán bộ, binh lính Việt Nam của Trung Quốc được coi là tội ác chiến tranh, nó là hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật áp dụng trong xung đột vũ trang (còn gọi là Luật Nhân đạo quốc tế). Theo đó, các hành vi được coi là tội ác chiến tranh bao gồm “giết người, ngược đãi hoặc chuyển người dân dân sự của một lãnh thổ bị chiếm đóng vào các trại lao động nô lệ”, “các vụ giết người hoặc ngược đãi các tù nhân chiến tranh”, giết các con tin, “phá hủy bừa bãi các thành phố, thị xã, làng, và tàn phá không có lý do cần thiết quân sự, hoặc dân sự”… Luật trên cũng quy định những người nằm ngoài và những người bị loại khỏi vòng chiến phải được tôn trọng về sinh mạng, được đảm bảo toàn vẹn về thân thể và tinh thần. Trong mọi trường hợp, các đối tượng trên phải được bảo hộ và đối xử nhân đạo không có bất kỳ sự phân biệt nào; nghiêm cấm việc giết hoặc làm bị thương đối phương khi họ đã quy hàng hoặc đã bị loại khỏi vòng chiến đấu; người bị thương hoặc bị ốm phải được thu gom lại và chăm sóc bởi bên đối phương đang cầm giữ họ. Các nhân viên y tế, các trạm và phương tiện vận chuyển và trang thiết bị y tế phải được tôn trọng và bảo vệ. Biểu tượng chữ thập đỏ và trăng lưỡi liềm đỏ trên nền trắng là dấu hiệu bảo hộ những người và vật dụng nói trên nên phải được tôn trọng; tù binh và dân thường bị phía đối phương bắt giữ phải được tôn trọng về sinh mạng, phẩm giá, các quyền tự do và tư tưởng cá nhân, chính trị, tín ngưỡng và tập tục tôn giáo. Cấm sử dụng các hành động bạo lực hoặc trả đũa đối với họ. Họ được bảo đảm quyền liên lạc với gia đình và tiếp nhận sự cứu trợ… Tuy nhiên, Trung Quốc không hề để ý đến quy định của Luật Nhân đạo quốc tế, không cho phép tàu mang cờ chữ thập đỏ của Việt Nam vào cứu chữa những người bị thương trên đảo, đồng thời Trung Quốc cũng đàn áp, không cứu chữa những người bị thương khi bắt giữ họ.
Thứ hai,vào thời điểm năm 1988, luật quốc tế đã cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Việc sử dụng vũ lực chỉ được cho phép trong trường hợp ngoại lệ khi có sự cho phép của Liên hiệp quốc theo Điều 42 hoặc tự vệ khi bị xâm lược theo Điều 51 của Hiến chương. Không những vậy, Trung Quốc còn vi phạm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia quy định tại Khoản 1 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc khi Trung Quốc dựa vào vị thế nước lớn nên tự cho mình có nhiều quyền và lợi ích trên biển hơn quốc gia khác, để tiến hành hoạt động quân sự nhằm bảo vệ cho những quyền và lợi ích đó bất chấp việc xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và các quyền, lợi ích hợp pháp của các nước khác.
Vi phạm nguyên tắc các quốc gia giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình quy định tại Khoản 3 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc. Vi phạm Khoản 4, Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc, cụ thể quy định “các quốc gia thành viên hạn chế việc đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực (Vũ lực thông thường được hiểu là vũ lực quân sự, vũ lực do vũ khí, khí tài) trong quan hệ quốc tế chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của các quốc gia khác hoặc trái với các mục đích của Liên hợp quốc”.
Vi phạm Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó quy định: “Các bên tham gia tranh chấp trước tiên phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng các tổ chức hoặc các hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình”, tuy nhiên việc quân sự hóa trên các thực thể ở Biển Đông của Trung Quốc hoàn toàn đi ngược lại quy định này. Trên thực tế, do thiếu vắng sự cho phép của Liên hợp quốc và cơ sở pháp lý hợp pháp cho hành vi tự vệ, hành động sử dụng vũ lực của Trung Quốc vào năm 1988 là hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy phạm bắt buộc jus cogen của luật quốc tế.
Không những vậy, Trung Quốc còn vi phạm nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế.Nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda) là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được quy định tại khoản 2 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc. Theo đó, mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện và có thiện chí, trung thực và đầy đủ các nghĩa vụ đối với các điều ước quốc tế mà nước mình đã tham gia ký kết. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế khác. Lời mở đầu của Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định quyết tâm của các nước thành viên là: “Tạo những điều kiện cần thiết để bảo đảm công lý và tôn trọng những nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước quốc tế và các nguồn khác của luật quốc tế đặt ra”.
Điều 26 Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế cũng nêu rõ “Mọi điều ước đã có hiệu lực ràng buộc các bên tham gia và phải được các bên thi hành với thiện chí”. Tuyên bố năm 1970 về Các nguyên tắc của luật quốc tế; Định ước Helsinki năm 1975 cũng có nêu rõ nguyên tắc này.
Thứ ba, đối với các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, việc Trung Quốc dùng súng thảm sát cán bộ, binh lính Việt Nam ở đá Gạc Ma năm 1988 là vi phạm Điều 39 về các nghĩa vụ của tàu thuyền và phương tiện bay trong khi quá cảnh. Theo đó, Việt Nam là nước có chủ quyền hợp pháp đối với quần đảo Trường Sa nói chung và đá Gạc Ma nói riêng, nên tàu thuyền của Trung Quốc khi đi qua vùng biển này “không được đe dọa hay dùng vũ lực để chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của các quốc gia ven eo biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc pháp luật quốc tế được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc; Không được có hoạt động nào khác ngoài những hoạt động cần cho sự quá cảnh liên tục và nhanh chóng, theo phương thức đi bình thường, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc trừ trường hợp nguy cấp” (Mục b, c, Khoản 1, Điều 39). Điều đáng nói ở đây, Trung Quốc không chỉ đe dọa sử dụng vũ lực mà còn dùng súng để thảm sát cán bộ, binh lính của Việt Nam đang ở trên đá Gạc Ma.
Ngoài ra, Trung Quốc còn vi phạm Điều 301 về việc sử dụng biển vào những mục đích hòa bình. Điều 301 quy định: “Trong việc thực hiện các quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình theo đúng Công ước, các quốc gia thành viên tránh dựa vào việc đe dọa hay sử dụng vũ lực để xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của mọi quốc gia hay tránh cùng bất kỳ cách nào khác không phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc”.
Thứ tư, khi bắt giữ 9 binh lính Việt Nam, Trung Quốc đã giam giữ và có các hành động tra tấn và không cứu chữa vết thương đối với họ. Hành động này của Trung Quốc cũng đã vi phạm nghiêm trọng Công ước Genève về đối xử nhân đạo với tù binh, hàng binh chiến tranh. Theo Công ước, đối xử nhân đạo với tù binh và hàng binh chiến tranh là các hướng dẫn về việc bảo toàn an toàn tính mạng, danh dự, phẩm giá tù binh và hàng binh. Nó bao gồm các khuyến cáo về việc trợ giúp cứu chữa cho người bị thương; các hành vi bị khuyến cáo không được phép dùng để truy bức về tinh thần và thể xác; các hình thức, các nhục hình và các lời nói làm xúc phạm đến nhân phẩm người bị bắt hoặc xúc phạm niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng hoặc lý tưởng người bị bắt; các khuyến cáo về việc không được dùng tù binh và hàng binh làm con tin hoặc bia đỡ đạn, hoặc lao động khổi sai… các hướng dẫn về việc sinh hoạt tối thiểu của người bị bắt về vệ sinh, lương thực, thuốc men, thực phẩm tuỳ theo điều kiện cho phép của các bên và tình hình chiến trường. Công ước Genève cũng khuyến cáo các hành vi của lực lượng chiếm đóng đối với dân thường trong việc nhanh chóng lập lại trật tự xã hội, đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của dân thường và việc cung cấp các phương tiện sống căn bản và chăm sóc y tế căn bản cho nạn nhân chiến tranh. Công ước Genève cũng xác định các quyền lợi và nghĩa vụ của lực lượng chiếm đóng trong việc được tiếp tục sở hữu các tài sản và quyền lợi của chính quyền cũ về cơ sở hạ tầng và cơ sở kinh tế nhưng lực lượng chiếm đóng phải gánh chịu các nghĩa vụ nợ của chính quyền cũ, kể cả các món nợ lương và lương hưu của các nhân viên dân sự phục vụ chính quyền cũ hoặc các món nợ kinh tế vay từ bên ngoài không phục vụ trực tiếp cho chiến tranh.
Từ những dẫn chứng và căn cứ pháp lý trên cho thấy, Trung Quốc dùng súng thảm sát 64 cán bộ, binh lính Việt Nam trên đá Gạc Ma không chỉ là hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, mà còn đi ngược lại các quy định của luật pháp quốc tế. Hành động của Trung Quốc là tội ác chiến tranh, dùng vũ lực xâm lược lãnh thổ hợp pháp của nước khác.